Thứ Hai, 30 tháng 11, 2015

RƯỢU TRONG THƠ ĐƯỜNG 96






淮上喜會
梁州故人
 韋應物
江漢曾
相逢每醉還
浮雲一別後
水十年間
歡笑情如舊
箫疎鬢已斑
何人不歸去
淮上有秋山

Hoài thượng hỉ hội
Lương Châu cố nhân

           Vi Ứng Vật

Giang Hán từng vi khách
Tương phùng mỗi túy hoàn
Phù vân nhất biệt hậu
Lưu thủy thập niên gian
Hoan tiếu tình như cựu
Tiêu sơ mấn dĩ hoàn
Hà nhân bất quy khứ
Hoài thượng hữu thu san.

Dịch nghĩa:
Ven sông Hoài 2 mừng
Gặp bạn cũ ở Lương Châu 2

Vùng lưu vực Hán Thủy 3 tatừng làm khách ở đó
Mỗi lần gặp nhau là lại say khướt mới trở về
Sau lần mây nổi từ biệt nhau
Đã trài qua mười năm nước chảy rồi
Nói cười tình như cũ
Mái tóc thì đã thư đi và bạc
Vì cớ gì mà bạn không trở về
Trên bờ sông Hoài vẫn có dãy núi mùa thu

Dịch thơ:

Từng là khách Giang Hán
Gặp nhau say mới rời
Từ biệt nhau mây nổi
Đã mười năm nước trôi
Vui cười tình như cũ
Mái tóc thưa bạc rồi
Sao bạn không trở lại
Núi mùa thu sông Hoài ?

  1. Sông Hoài: chỉ vùng Hoài Âm, Giang Tô ngày nay
  2. Lương Châu: phía đông huyện Nam Trịnh, Thiểm Tây ngày nay
  3. Giang Hán: trong nguyên văn là chỉ sông Hán Thủy, phần phía bắc sông thuộc địa phận Lương Châu.

01/12/2015
Đỗ Đình Tuân

RƯỢU TRONG THƠ ĐƯỜNG 95






VI ỨNG VẬT
韋應物

Vị Ứng Vật (737-khoảng 792), người Van Niên, Kinh Triệu (nay là Tây An, Thiểm Tây. Thiếu thời làm tam vệ lang, hầu cận Huyền Tông. Sau vào học thái học, lần lượt giữ các chức Lạc Dương thừa, Giang Châu thứ sử, tả ty lang trung, Tô Châu thứ sử, nên người đời gọi Vi Giang Châu, Vi Tả Ty, Vi Tô Châu.
Thơ ngũ ngôn của Vi Ứng Vật cao nhã, thơ sơn thủy điền viên học Đào Uyên Minh, thanh nhã điềm đạm. Cũng có một số thơ phản ánh nỗi thồng khổ của nhân dân, đả kích nền chính trị đương thời. Có Vi Tô Châu tập. Trong Toàn Đường thi co 10 quyển thơ ông.


寄全椒山中
  道士
   韋應物
今朝郡齋令
忽念山中客
澗底束
歸來煮白石
欲持一瓢酒
遠慰風雨夕
落葉滿空山
何處尋行

Ký toàn Tiêu Sơn
   Trung đạo sĩ

       Vi Ứng Vật

Kim triêu quận trai lãnh
Hốt niệm sơn trung khách
Giản để thúc kinh tân
Quy lai chử bạch thạch
Dục trì nhất biều tửu
Viễn úy phong vũ tịch
Lạc diệp mãn không sơn
Hà xứ tầm hành tích.

Dịch nghĩa:
Gửi đạo sĩ trong núi
      Toàn Tiêu 1

Sáng nay dinh quận 2 vắng vẻ lạnh lẽo
Bỗng nhớ người bạn trong núi 3
Vẫn kiếm củi đáy khe
Đem về nấu bạch thạch 4
Ta muốn mang một bầu rượu đến thăm bạn
Nhưng xa ngại chiều mưa gió
Lá rụng đầy núi
Biết tìm hành tích bạn nơi đâu bây giờ

Dịch thơ:

Sáng nay dinh tịch mịch
Bỗng nhớ bạn trong rừng
Vẫn kiếm củi lòng khe
Đem về nấu bạch thạch
Muốn đem một bầu rượu
Ngại xa chiều gió mưa
Lá rụng đầy núi vắng
Tìm bạn đâu bây giờ ?
            Đỗ Đình Tuân

  1. Toàn Tiêu: tên một huyện ở phía đông tỉnh An Huy
  2. Dinh quận: lúc này Vi Ứng Vật đang làm thứ sử Tô Châu
  3. Người bạn trong núi: chỉ đạo sĩ  trong núi Thấn Sơn phía tây huyện Toàn Tiêu
  4. Theo sách Thần Tiên truyện, nấu bạch thạch làm lương thực. Còn theo sách Vân cấp thất thiêm, đạo gia có 5 cách nấu thạch anh vào ngày trùng dương, sau khi trai giới, người ta nấu thiêm bạch (?), thạch anh trắng, mật trắng (?), vừng đen và nước suối để uống.

01/12/2015
Đỗ Đình Tuân


RƯỢU TRONG THƠ ĐƯỜNG 94






VI TRANG
韋莊

Vi trang (816-910), tự Đoan Kỷ, người Đỗ Lăng, Kinh Triệu (nay là đông bắc Trường An, Thiểm Tây). Tiến sĩ năm Càn Ninh (894-898), được phong hiệu thư lang. Sau vào đất Thục nương tựa Vương Kiến, khuyên Vương Kiến xừng đế.
Phong cách thơ ông thanh lệ , phiêu dật, nỗi ly biệt nhớ quê hương. Có Cán hoa tập. Toàn Đường thi có 6 quyển thơ ông.

東陽酒家贈別
        韋莊
天涯方嘆異鄉身
又向天涯別故人
明日五更孤店月
醉醒何處各沾巾

Đông Dương tửu gia tặng biệt

                    Vi Trang

Thiên nhai phương than dị hương thân
Hựu hướng thiên nhai biệt cố nhân
Minh nhật ngũ canh cô điếm nguyệt
Túy tinh hà xứ các triêm cân.

Dịch nghĩa:
Thơ lưu biệt tại quán rượu Đông Dương

Ta vừa than thân phận xa xứ nơi chân trời
Lại phải tiễn bạn đi về phía chân trời
Ngày mai năm canh dưới ánh trăng nơi quán lẻ
Say tỉnh ở chốn nào cũng đều nhỏ lệ ướt khăn.

Dịch thơ:

Chân trời ta luống những than thân
Lại phải chân trời biệt cố nhân
Quán rượu đêm mai trăng sáng lẻ
Tỉnh say đều cũng lệ đầm khăn.
                        Đỗ Đình Tuân

01/12/2015
Đỗ Đình Tuân

RƯỢU TRONG THƠ ĐƯỜNG 93






酬樂天揚州
初逢席上見贈
 
    劉禹錫

巴山楚水凄
二十三年棄置身
懷舊空吟聞笛賦
到鄉翻似爛柯人
沈舟側畔千帆過
病樹前頭萬木春
今日聽君歌一曲
杯酒長精唇

Thù Lạc Thiên Dương Châu
Sơ phùng tịch thượng kiến tặng

                      Lưu Vũ Tích

Ba sơn Sở thủy thê lương địa
Nhị thập tam niên khí trí thân
Hoài cựu không ngâm văn địch phú
Đáo hương phiên tự Lạn Kha nhân
Trầm chu trắc bạn thiên phàm quá
Bệnh thụ tiền đầu vạn mộc xuân
Kim nhật thính quân ca nhất khúc
Tạm bằng bôi tửu trưởng tinh thần.

Dịch nghĩa:
Đáp bài thơ Lạc Thiên 1tặng
Tại chiếu rượu khi mới gặp nhau ở Dương Châu 2

Non núi xứ Ba sông nước xứ Sở 3vùng đất thê lương
Hai mươi ba năm tấm thân bị biếm trích 4
Nhớ bạn cũ ngâm suông bài phú “Nghe tiếng sáo” 5
Về đến quê hương mà như người dưng vậy 6
Bên cạnh chiếc thuyền bị chìm nghìn cánh buồm lướt qua
Trước cây bị bệnh vạn cây tươi tốt vẻ xuân
Hôm nay nghe bác ca một khúc
Tôi tạm nhờ chén rượu làm cho tinh thần phấn chấn.

Dịch thơ:

Núi Ba sông Sở thật buồn thay
Hai chục năm trời phải tới đây
Nhớ bạn ngâm suông “Nghe tiếng sáo”
Về quê như thể người dưng vầy
Thuyền chìm bên cạnh nghìn buồm lướt
Cây bệnh xuân quanh vạn khóm dày
Nghe bác hôm nay ca một khúc
Tôi nhờ chén rượu nhắp cho khuây.
                             Đỗ Đình Tuân

  1. Lạc Thiên: tự của Bạch Cư Dị
  2. Bài thơ làm vào năm Bảo Lịch 2 (826). Lúc này Lưu Vũ Tích bãi chức thứ sử Hòa Châu trở về kinh đô, ngang qua Dương Châu, gặp Bạch Cư Dị từ Tô Châu về Lạc Dương. Bạch cư dị làm bài “túy tặng Lưu nhị thập bát sứ quân” tặng Lưu Vũ Tích. Đây là bài Lưu Vũ Tích đáp lại Bạch Cư Dị. Nhà thơ khúc triết biểu hiện tâm trạng phức tạp khi lâu ngày bị biếm trích: trầm uất, buồn chán những vẫn có cái gì đó hào phóng, khoáng đạt. Riêng hai câu 5 và 6 có những cách hiểu khác nhau. Có người cho đó là niềm lạc quan trước sự thay cũ đổi mới, có người lại hiểu đó Lf sự ngậm ngùi của người thất thế và sự vênh vang của những kẻ hãnh tiến đắc thế.
  3. Nhà thơ bị biếm trích đến các vùng Lãng Châu, Hòa Châu, Quỳ Châu, Quý Châu xưa thuộc nước Ba, Lãng Châu xưa thuộc đất Sở, nên mới nói là núi non xứ Ba, sông nước xứ Sở.
  4. chỉ thời gian nhà thơ bị biếm rời kinh đo năm Vĩnh Trinh thứ nhất (805) đến năm trở về kinh đo năm Bảo Lịch thứ 2 (826)
  5. chỉ bài “ Tư cựu phú” ( Nhớ bạn cũ) của Hướng Tú, một trong “Trúc lâm thất hiền” đời Tấn. Có lần Hướng Tú đi qua chỗ ở cũ của các bạn bị hại là Kê Khang và Lữ An, nghe người láng giềng của hai ông thổi sáo, tiếng sáo bi thiết khiến ông xúc động làm nên bài phú này.
  6. Nguyên văn là “Lạn Kha nhân” tức là người có cái cns rìu mục nát. Theo sách Thuật dị ký có ghi một người đời Tấn tên là Vương Chất vào núi đốn củi, thấy hai cậu bé đánh cờ, liền dừng lại xem. Đến cuối cuộc cờ Vương phát hiện ra cán rìu đã mục. Trở về nhà mới biết thời gian đã trôi qua một trăm năm. Người cùng trang lứa đã chết gần hết. Nhà thơ bị biếm trích 23 năm, khi trở về Giang Nam thấy ngưới và vật đều hoàn toàn đổi khác, cảm thấy mình lcj long, không nén nổi xót xa nên dùng tích này để bộc lộ nối thương cảm của mình trước cảnh vật đổi sao rời.


30/11/2015
Đỗ Đình Tuân

Chủ Nhật, 29 tháng 11, 2015

RƯỢU TRONG THƠ ĐƯỜNG 92






LƯU VŨ TÍCH
劉禹錫

Lưu Vũ Tích (772-842), tự Mộng Đắc, người Lạc Dương (nay thuộc Hà Nam). Tiến sĩ năm Trình Nguyên 9 (793), được trao chức thái tử hiệu thư, giám sát ngự sử. Sauk hi Đường Thuận Tông kế vị, giữ chức đồn điền viên ngoại lang. Tham gia vào cuộc cách tân Vĩnh Trinh (805). Sauk hi cuộc cách tân thất bại, bị biếm làm tư mã Lang Châu. Sau lần lướt làm thứ sử các châu Bá, Liêu, Quỳ, Hòa, Tô Nhữ, Đồng rồi vào triều đình làm thái tử tân khách. Thời Vũ Tông được phòng hàm Kiểm hiệu Lễ bộ thượng thư. Người đời gọi là Lưu Tân Khách, Lưu Thượng Thư.
Thơ ông gồm đủ thể loại, phong cách trầm tĩnh, vững trãi, mới mẻ, tự nhiên. Những bài thơ ông làm phỏng theo dân ca, như “Trúc chi từ” mở ra một diện mạo mới trong thơ Đường, có ảnh hưởng sâu xa đến đời sau. Có Lưu Tân Khách thi tập. Toàn Đường thi có 12 quyển thơ ông.

飲酒看牡丹
   劉禹錫
今日花前飲
甘心醉數杯
但愁花有語
老人開

Ẩm tửu khan mẫu đơn
 
           Lưu Vũ Tích

Kim nhật hoa tiền ẩm
Cam tâm túy sổ bôi
Đãn sầu hoa hữu ngữ
Bất vị lão nhân khai.

Dịch nghĩa:
Uống rượu ngắm hoa mẫu đơn

Hôm nay uống rượu trước hoa
Những mong uống mấy chén cho say
Nhưng lại buồn vì hoa như muốn nói
Chẳng phải hoa nở cho người già đâu.

Dịch thơ:

Trước hoa uống rượu hôm nay
Định dùng mấy chén cho say la đà
Chợt buồn nghe thấy tiếng hoa
“Tôi không nở vì ông già này đâu” !
                          Đỗ Đình Tuân

29/11/2015
Đỗ Đình Tuân  

RƯỢU TRONG THƠ ĐƯỜNG 91






雲陽館與
韓伸宿別
   司空曙
故人江海別
幾度隔山川
乍見翻疑夢
相悲各問年
孤燈寒照雨
濕竹暗浮煙
更有明朝恨
離杯惜共傳

Vân Dương quan dữ
Hàn Thân túc biệt

Cố nhân giang hải biệt
Ký độ cách sơn xuyên
Sạ kiến phiên nghi mộng
Tương bi các vấn niên
Cô đăng hàn chiếu vũ
Thấp trúc ám phù yên
Cánh hữu minh triêu hận
Ly bôi tích cộng truyền.

Dịch nghĩa:
Chia tay Hàn Thân sau khi
cùng nhau trọ tại quán Vân Dương *

Bạn cũ mối người một ngả bôn ba song biển
Bao lần cách trở núi sông
Nay bỗng gặp lại thoạt nhìn nhau lại ngỡ trong mơ
Sau một hồi đau buồn liền hỏi tuổi nhau
Ánh đèn lẻ loi lạnh lẽo soi rọi làn mưa bên ngoài
Khóm trức ướt bị lớp khói nổi lên làm mờ khuất
Giận nỗi sáng mai lại phải chia tay nhau rồi
Chén rượu tiễn biệt mà lòng dùng dằng không dứt.

*Vân dương: tên huyện phias tây bắc huyệnKinh Dương Thiểm Tây ngày nay.

Dịch thơ:

Bạn cũ bôn ba sông biển
Bao lần xa cách núi sông
Gặp lại thoạt nhìn ngỡ mộng
Buồn thương hỏi tuổi nhau cùng
Đèn nhỏ chiếu làn mưa lạnh
Trúc ướt khói che mịt mùng
Sáng mai đã lại ly biệt
Chén đưa không nỡ dứt lòng.
                 Đỗ Đình Tuân

29/11/2015
Đỗ Đình Tuân

Thứ Sáu, 27 tháng 11, 2015

RƯỢU TRONG THƠ ĐƯỜNG 90






TƯ KHÔNG THỰ
司空曙

Tư Không Thự (720-790), tự Văn Minh (có bản ghi là Văn Sơ?), người Quảng Bình (phía đông Vĩnh Niên, Hà Bắc ngày nay). Lúc trẻ tới Trường An thi, không đỗ. Thời Trinh Nguyên, Đức Tông, làm kiếm hiệu thủy bộ lang trung. Ông là một trong 10 tài tử thời Đại Lịch.
Thơ ông phần nhiều viết về cảnh tiễn biệt, cuộc sống lênh đênh phiêu dạt. Ông khéo dùng từ ngữ chân thật thẳng thắn để biểu hiện nỗi niềm lưu lạc tha hương, tình cảm buồn rầu thất ý. Trong Toàn Đường thi ông co 2 quyển.

玩花與衛象
 
 司空曙
衰鬢千
他鄉一樹花
今朝與君
在長沙

Ngoạn hoa dữ vệ tượng
       đồng túy

            Tư Không Tự

Suy mấn thiên hành tuyết
Tha hương nhất thụ hoa
Kim triêu dữ quân túy
Vong khước tại Trường Sa.

Dịch nghĩa:
Ngắm hoa cùng say với
          Vệ Tượng

Tóc ta cắn nghìn sợi trắng như tuyết
Chốn quê người cùng ngắm một cây hoa
Sáng nay cùng bạn say
Khiến tôi quên rằng mình đang ở Trường Sa.*

Dịch thơ:

Tóc cằn đã nghìn sợi bạc
Quê người ngắm một cây hoa
Sớm nay cùng say với bạn
Quên mình đang ở Trường Sa
                        Đỗ Đình Tuân

*Trường Sa: thuộc Hồ Nam, cách Động Đình 150 km về phía nam, nơi trước kia khí hậu rất độc, làm quan nơi này coi như bị đi đày.


28/11/2015
Đỗ Đình Tuân

RƯỢU TRONG THƠ ĐƯỜNG 89






THÔI THỰ
崔曙

Thôi Thự (?-739), quê gốc Bác Lăng (An Bình, Hà Bắc ngày nay). Thuở nhỏ nhà nghèo, ngụ cư ở Tống Châu (Thương Khâu, Hà Nam ngày nay). Tiến sĩ thời Khai Nguyên, được phong Hà Nội úy. Năm sau thì mất. Từng giao du với Tiết Cứ…
Thơ ông từ ngữ uyển chuyển, tình ý bi thương. Trong Toàn Đường thi ông có 1 quyển.

九日登望仙臺
    呈劉明府
       崔曙
漢文皇帝有高臺
此日登林曙色開
雲山皆北向
二陵風雨自東來
關門令尹誰能識
河上仙翁去不回
且欲近尋彭澤宰
陶然共醉菊花杯

Cửu nhật đăng vọng Tiên đài
      trình Lưu Minh Phủ

Hán Văn hoàng đế hữu cao đài
Thử nhật đăng lâm thự sắc khai
Tâm Tấn vân sơn giai bắc hướng
Nhị Lăng phong vũ tự đông lai
Quan môn lệnh doãn thùy năng thức
Hà thượng tiên ông khứ bất hồi
Thả dục cận tầmBành Trạch tể
Đào nhiên cộng túy cúc hoa bôi.

Dịch nghĩa:
Ngày mồng 9 lên đài Vọng Tiên 1
        trình Lưu Minh Phủ

Hán Văn đế có đài cao 2
Hôm nay ta leo lên mầu nắng sớm rộng mở
Núi mây Tam Tấn 3 đều hướng về phương bắc
Gió mưa Nhị Lăng 4 thảy tới từ phía đông
Ai có thể biết viên lệnh doãn ở Quan Môn 5  là ai
Còn tiên ông trên sông 6 thì đi không trở lại
Ta muốn tìm huyện lệnh Bành Trạch 6
Để thoải mái cùng nhau say chén rượu cúc.


Dịch thơ:

Đài cao Văn Đế vọng tiên sông
Ta bước lên xem nắng sớm hồng
Tam Tấn núi mây bay hướng bắc
Nhị Lăng mưa gió đến từ đông
Quan Môn lệnh doãn còn ai biết
Vị khách năm nào chẳng dấu trông
Muốn kiếm tìm ông Bành Trạch nọ
Nâng ly rượu cúc để say cùng.
                           Đỗ Đình Tuân


  1. Vọng Tiên đài: do Hán Văn đế cho xây. Tương truyền Hán Văn đế từng được ông lão trên sông (Hà Thượng Công) trao cuốn Lão Tử. Trao sách rồi ông lão đi đâu không biết. Về sau Văn đế cho xây cái đài này để ngóng trông ông như một vị tiên.
  2. Đài cao: tức Đài Vọng Tiên
  3. Tam Tấn: cuối đời Xuân Thu nước Tấn chia làm ba: Hàn, Ngụy, Triệu.
  4. Trong Hào Sơn (Thiểm Tây ngày nay) có 2 lăng là: Nam Lăng (mộ của Hạ Hậu Vương) và Bắc Lăng (mộ của Chu Văn Vương)
  5. Theo điển tích, viên lệnh doãn này tên là Hỷ. Khi Lão Tử đến Quan Môn, ông ta đã giữ Lão Tử lại để viết sách.
  6. Tiên ông trên sông: tức Hà Thượng Công. Tương truyền Hán Văn Đế đã từng mời ông ta giảng Lão Tử.
  7. Huyện lệnh Banhg Trạch: tức Đào Uyên Minh, từng làm huyện lệnh Bành Trạch.. Câu thơ chỉ có ýtượng trưng.

28/11/2015
Đỗ Đình Tuân

ĐẾM TIỀN

Ông ngồi giương kính đếm tiền Đồng tiền mỏng thế mà liền với xương Tiền này là khoản tiền lương Là tiền năm tháng chiến trường cho ta ...