Chủ Nhật, 30 tháng 11, 2014

Nghe bài ca em tặng







Giữa đêm khuya thanh vắng
Nghe bài ca em tặng
Nơi bắt đầu tình yêu…

Anh đang nằm thiu thiu
Bỗng vào ngay giấc mộng
Lâng lâng cùng cánh sóng
Anh bay về phương em…

Ước gì cứ đêm đêm
Lại nghe bài em tặng
Anh đi vào cõi mộng
Nơi bắt đầu tình yêu ?

1/12/2014
Đỗ Đình Tuân

Thứ Sáu, 28 tháng 11, 2014

Chia sẻ cùng Thanh Dạ






Thương ông vào tuổi xế tà
Dở dang sau trước vẫn là dở dang
Đa tình nên lắm đa mang
Vợ già con trẻ dẫu đang cần mình
Canh chẳng ngọt, cơm chẳng lành
Chợ chiều đứt gánh cũng đành vậy thôi
Tự do dù khóc dù cười
Cũng xin chia sẻ với người tự do.

29/11/2014
Đỗ Đình Tuân

Phụ chép thơ Thanh Dạ

Cám ơn Em đã bỏ Anh
Tự nhiên, bỗng chốc Anh thành...tự do

Ăn thì tự nấu, tự kho
Ngủ thì lại cậy các...Bồ vậy thôi

Tự do
nay được vãn hồi
Như chuyện các tỉnh nhập rồi tách ra

Tách ra
cũng có thể là
Một biện pháp tốt để mà...nhớn thêm !

Phố Quê 28/11/2014 T.D

Thứ Năm, 27 tháng 11, 2014

Học…




Chưa biết đen như mực
Biết rồi rõ như in
Học…
Xua bóng đêm !

28/11/2014
Đỗ Đình Tuân

Thứ Tư, 26 tháng 11, 2014

Cám ơn Nho !






Cám ơn Nho ở bên Lào
Hôm qua bỗng nhắn tin vào cho anh
Bởi tai nghe nhạc không rành
Bài ca em tặng anh đành…chẳng nghe
Các em đang dở trò vè
Trêu anh anh ứ nghe thì... hết trêu ?

27/11/2014
Đỗ Đình Tuân

Thứ Bảy, 22 tháng 11, 2014

Nhớ…?






Độ này nghĩ có lên tay
Quen hơn nét chữ dịch hay nhiều bài
Sớm chiều đã chẳng nhớ ai
Đêm dậy thở dài… lại nhớ cô nho
Những cô râu rậm bụng to
Những cô uốn éo eo co dịu dàng
Lắm khi chợp mắt mơ màng
Các cô lại gọi: hỡi chàng em đây !

23/11/2014
Đỗ Đình Tuân

Thứ Năm, 20 tháng 11, 2014

Chim lạ









Bụi cây trơ trụi trước nhà
Có con chim lạ thường xà xuống chơi
Thân đen cằm trắng mỏ dài
Nào tôi có biết là loài chim chi ?
Chán rồi chim lại bay đi
Dửng dưng tôi chẳng nghĩ gì đến chim
Chiều nay bất giác ngước nhìn
Thấy sao trống vắng bởi chim không về
Lòng người nghĩ cũng lạ ghê
Tự dưng tôi muốn chim về thường xuyên
Dẫu không hót dẫu không chuyền
Về đây chim cứ đậu nguyên trên cành
Đỡ buồn cho bụi cây xanh…


21/11/2014
Đỗ Đình Tuân

Lại dịch thơ Nguyễn Khuyến 32






Bài 35

Sơ chí Đà Tấn…

Nguyên tác và phiên âm

初至沱晉奉送當事
諸君
Sơ chí Đà Tấn phụng tống đương sự
chư quân
回首觚陵淚暗潸
Hồi thủ cô lăng lệ ám san
鶴書昨夜到漎關
Hạc thư tạc dạ đáo tùng quan
當年豈乏中兴佐
Đương niên khởi phạp trung hưng tá
聖世能容昔病閒
Thánh thế năng dung tích bệnh nhàn
未死艱難愁白髮
Vị tử gian nan sầu bạch phát
此生懶散愛青山
Thử sinh lãn tán ái thanh san
故園忍負黄花約
Cố viên nhẫn phụ hoàng hoa ước
願放淵明三徑還
Nguyện phóng Uyên Minh tam kính hoàn

Dịch nghĩa: mới đến cử bể Đà Nẵng đưa các vị đương sự

Ngoảnh nhìn lại góc cung điện giọt lệ thầm rơi
Tờ chiếu đêm nọ đã đến cửa Tùng quan 1
Hiện nay há thiếu người giúp sự nghiệp trung hưng
Đời thánh quân có thể dung cho kẻ ốm lâu được nghỉ
Chưa chết nhưng gian nan buồn đến bạc đầu
Cuộc sống thế này bệnh lười phát sinh chỉ yêu thích núi xanh
Nỡ phụ lời ước hoàng hoa với mảnh vườn cũ
Những muốn như Uyên Minh 2  lại trở về với ba luống cúc.

Dịch thơ:

Góc cung nhìn lại lệ thầm rơi
Tờ chiếu đêm qua đến thật rồi
Đời thánh sao dung toàn nặng bệnh
Trung hưng nào có thiếu chi người
Núi xanh chỉ muốn lui về nghỉ
Chưa chết nhưng mà cũng hết vui
Nỡ phụ hoàng hoa vườn cũ mãi
Uyên Minh mau tính trở về thôi.
                           Đỗ Đình Tuân
                             (Dịch thơ)

Chú thích:
1.Tùng quan: tên một cửa ải ở tỉnh Nhiệt Hà Trung Quốc. Đây chỉ Đà Nẵng
2.Uyên Minh: tức Đào Tiềm, nhà tho đời Tấn bên Trung Quốc.

21/11/2014
Đỗ Đình Tuân

Thứ Tư, 19 tháng 11, 2014

Lại dịch thơ Nguyễn Khuyến 31






Bài 24

Hạ nhật hữu cảm

Nguyên tác và phiên âm

夏日有感
Hạ nhật hữu cảm
皇恩夤重感夤增
Hoàng ân di trọng cảm di tăng
許久南冠絕不能
Hứa cửu nam quan tuỵet bất năng
尚有人心犀一点
Thượng hữu nhân tâm tê nhất điểm
可無世局淚三升
Khả vô thê cục lệ tam thăng
始年志氣歸双鬢
Thủy niên chí khí quy song mấn
末学文章入下層
Mạt học văn chương nhập hạ tằng
旅夢黄花白酒伴
Lữ mộng hoàng hoa bạch tửu bạn
未應驚倦枕青燈
Vị ưng kinh quyện chẩm thanh đăng

Dịch nghĩa: Cảm nghĩ ngày hè

Ơn vua càng nặng thì cảm khích càng nhiều
Đã lâu nay đội mũ phương nam 1  muốn dứt đi không được
Vì còn có một điểm lòng người như sừng tê 2 thông suốt
Nên đối với thế cục không thể không ứa lệ đến ba thưng
Cái chí khí tuổi tre đã hao mòn đi cùng với hai mái tóc
Văn chương trong buổi học suy tàn đã rơi xuống bậc dưới
Giấc mộng hoa vàng nơi lữ thứ có rượu trắng gần gũi với mình
Chưa nên tỏ ra sợ sệt mệt mỏi gối đầu nằm trước ngọn đèn xanh.

Dịch thơ:

Ơn vua càng nặng cảm tình tăng
Cái mũ phương nam dứt được chăng ?
Lòng vẫn sừng tê thông nhất điểm
Mắt vì thế cuộc lệ ba thăng
Nguội tàn chí trẻ theo mầu tóc
Mạt học văn chương xuống hạ tằng
Lữ thứ bạn cùng ly rượu trắng
Đèn xanh bên gối hãy thung thăng.
                             Đỗ Đình Tuân
                               (Dịch thơ)

Chú thích:
  1. Mũ phương nam: Chung Nghi nước Sở bị cầm tù ở nước Tấn. Một hôm Tấn hầu trông thấy hỏi: “Người đội mũ phương nam bị trói kia là ai ?” Mọi người đáp: “Đó là tù nước Sở” (Tả truyện)
  2. Sừng con tê: giữa có lỗ thông suốt từ đầu nọ qua đầu kia. Người ta ví vói sự thông cảm trong tâm con người. Thơ Lý Thương Ẩn đời Đường có câu: “Tâm hữu linh tê nhất điểm thông”(Trong tâm có một điểm thông suốt như sừng con linh tê).


20/11/2014
Đỗ Đình Tuân

Xướng họa với Thanh Dạ






Vô duyên
(Bài họa nguyên vận)

Tự ngẫm về mình tôi thấy tôi
Vô duyên chẳng tán được ai rồi
Vợ thương con quý bà con nể
Không đẹp dưng mà lại hóa... khôi
Ôi …!

Tôi với tôi
(Bài xướng)

Tôi ngồi đối diện với thằng tôi
Đếch nhận ra ai được nữa rồi
Cái số đào hoa bồ bịch lắm
Vợ từ, con bỏ, hóa…tinh khôi !
Ôi !

Phố Quê 19/11/2014-TD

20/11/2014
Đỗ Đình Tuân

Nằm nghe...







Tỉnh giấc chợt nghe tiếng thập thình
Chiếc giường nghe rõ khẽ rung rinh
Trước giờ chưa thấy bao giờ thế
Sao bỗng nhiên mình lại khá tinh ?

20/11/2014
Đỗ Đình Tuân

Lại dịch thơ Nguyễn Khuyến 30






Bài 23

Tây kỹ

Nguyên tác và phiên âm:

          聞使部回日, 西伎數十人, 躶身而來, 當門而立, 使臣默默不言. 時陪使阮台坐前, 有花香水一瓶, 象牙疏即守瓶水洒户毛, 已疏裡之.
          Văn sứ bộ hồi nhật, tây kỹ sổ thập nhân, khỏa thân nhi lai, đương môn nhi lập, sứ thần mặc mặc bất ngôn. Thời bồi sứ Nguyễn thai tọa tiền, hữu hoa hương thủy nhất bình, tượng nha sơ chi.

天籩使部上車回
Thiên biên sứ bộ thướng xa hồi
數十西嬙解剖來
Sổ thập Tây tường giải bội lai
若恨生平知我少
Nhược hận sinh bình tri ngã thiểu
且相懷抱為君開
Thả tương hoài bão vị quân khai
洪荒世遠谁為此
Hồng hoang thế viễn thùy vi thử
烈國文繁有是差
Liệt quốc văn phồn hữu thị tai ?
更守牙疏香匣去
Cánh thủ nha sơ hương hạp khứ
澌毛滌垢未曾差
Tư mao địch cấu vị tằng sai.

Dịch nghĩa: Đĩ Tây

            Nghe biết ngày sứ bộ về nước, vài chục con đĩ Tây trần truồng kéo đến, đứng ngay giữa cửa, các ông lặng thinh không ai nói gì. Lúc áy trước mặt ông bồi sứ họ Nguyễn có một lọ nước hoa và chiếc lược ngà, chúng liền lấy nước hoa rẩy vào âm hỏồi lấy lược chải.

Bên trời sứ bộ sắp lên xe về
Vài chục con đĩ Tây trần truồng kéo đến
Chừng giận lúc bình nhận ít người biết đến
Hãy đem cái ôm ấp phô song với khách
Đời hồng hoang đã xa  ai lại làm thế
Văn vẻ phồn tạp các nước vốn như vậy chăng?
Còn vơ lấy chiếc lược ngà và lọ nước hoa
Chải lông rửa ghét chẳng sượng sung gì.

Dịch thơ:

Bên trời sứ bộ sắp bương
Đĩ tây mấy chục trần truồng chạy ra
Ngày thường ít kẻ xem hoa
Hôm nay tiễn khách đem ra phô bày
Văn minh sao lại thế này
Hay là văn vẻ phương Tây vậy à ?
Còn vơ lược vói nước hoa
Chải lông rửa ghét rất là tự nhiên.
                              Đỗ Đình Tuân
                                 (Dịch thơ)


19/11/2014
Đỗ Đình Tuân

Lại dịch thơ Nguyễn Khuyến 29





Bài 22

Hạ nhật văn cô ác thanh

Nguyên tác và phiên âm:

夏日聞鴣惡声
Hạ nhật văn cô ác thanh
鴣惡一声愁殺人
Cô ác nhất thanh sầu nhất nhân
鴣來春去不知春
Cô lai xuân khứ bất tri xuân
撤他桑杜為門户
Triệt tha tang đỗ vi môn hộ
只有婦夫無君臣
Chỉ hữu phụ phu vô quân thần
處處白衣憍白日
Xứ xứ bạch y kiêu bạch nhật
村村紅栵擻紅塵
Thôn thôn hồng lệ tẩu hồng trần
鴣來鴣不苦煩热
Cô lai cô bất khổ phiền nhiệt
回首東風暗濺巾
Hồi thủ đông phong ám tiễn cân

Dịch nghĩa: Ngày hè nghe tiếng chim cô ác 1

Một tiếng kêu cô ác buồn chết chết người ta
Cô về thì xuân đi cô không biết xuân
Lấy tổ rễ dâu của chi khác làm tổ của mình 2
Chỉ có vợ chồng mà không có vua tôi
Đến đâu đều áo trắng khoe khoang giữa ban ngày
Nơi nào quả vải đỏ cùng tới tấp trong bụi hồng 3
Cô đến cô không thấy khổ vì nóng nực
Ngoảnh đầu nhớ đến gió xuân giọt lệ thấm khăn.

Dịch thơ:

“Ác cô” nghe chết người buồn
Mi về báo hạ mùa xuân qua rồi
Có vợ chồng chẳng vua tôi
Đẻ nhờ tổ khác nhờ người nuôi con
Ban ngày áo trắng khoe khoang
Thấy cây vải đỏ vội vàng đến ăn
Biết gì nóng nực khó khăn
Ngoảnh đầu lại nhớ gió xuân lệ tràn.
                               Đỗ Đình Tuân
                                   (Dịch thơ)

Chú thích:
  1. Cô ác: theo tiếng Trung Quốc thì tiếng “cô ác” gần với tiếng kêu của chim “tu hú”. Cô ác lại có nghĩa là mẹ chồng ác. Tục truyền một người nàng dâu bị mẹ chồng ngược đãi, chết oan hóa thành giống chim kêu tiếng “cô ác”. Nhân đó người ta gọi là chim “Cô ác”. ếng Việt ta tiếng kêu của con chim này lại gần với tiếng “Tu hú”. Nên dân ta gọi là chim “Tu hú”. Có thể bài này tác giả mượn chim “cô ác” để đả kích người Pháp một cách kín đáo.
  2. Tục truyền chim tu hú là loài chim không biết làm tổ. thường đẻ trứng vào tổ chim khác đã làm sẵn. “Rễ dâu” là dịch chữ “tang đỗ” (桑杜). Tác giả đã dùng chữ của thơ trong Kinh Thi “Triệt bỉ tương đỗ, trù mâu dũ hộ” (Tha rễ dâu kia ràng rịt cửa tổ mình).
  3. Câu này nhắc truyện Dương Quý Phi đòi nhà Đường: Dương Quý Phi thích ăn vải ở quận Nam Hải là nơi co tiếng vải ngon. Khi đến mùa vải dân ở đây phải phi ngựa chạy ngày đêm đem tiến để kịp cho vải còn tươi. Có khi cả người lẫn ngựa chết ở dọc đường. Thơ Đỗ Mục có câu : “Nhất kỵ hồng trần phi tử tiếu, vô nhân tri thị lệ chi lai”(Một ngựa phi trong đám bụi hồng làm cho nàng phì cười, nào ai biết đâu rằng ngựa ấy đã đem quả vải đến). Ở nước ta mùa hè vải chín tu hú kêu nhiều.

19/11/2014
Đỗ Đình Tuân

ĐẾM TIỀN

Ông ngồi giương kính đếm tiền Đồng tiền mỏng thế mà liền với xương Tiền này là khoản tiền lương Là tiền năm tháng chiến trường cho ta ...