Thứ Hai, 3 tháng 11, 2014

Lại dịch thơ Nguyễn Khuyến 11





Bài 3

Thu dạ châm thanh

Nguyên tác và phiên âm

秋夜砧聲
Thu dạ châm thanh
更深霜重晏裘輕
Canh thâm sương trọng án cừu khinh
四顧寒砧枕畔縈
Tứ cố hàn châm chẩm bạn oanh
搗月高低侵角嚮
Đảo nguyệt cao đê xâm giác hưởng
隨風斷續散虫聲
Tùy phong đoạn tục bán trùng thanh
驚回戍婦襄城夢
Kinh hồi thú phụ tương thành mộng
喚起征夫?闕情
Hoán khởi chinh phu ngụy khuyết tình
一種幽愁消未得
Nhất chủng u sầu tiêu vị đắc
遠山何處又鐘鳴
Viễn sơn hà xứ hựu chung minh

Dịch nghĩa: Tiếng đập vải đêm thu

Canh khuya sương nặng áo cừu tía nhẹ
Tiếng đập vải bốn bề vang quanh bêb gối
Dồn dập dưới trăng cao thấp át cả tiếng tù và
Theo làn gió đứt nối lẫn vào tiếng dế
Khua tỉnh giấc mộng Tương Thành của người thú phụ
Gọi dậy tình ngụy khuyết của kẻ chinh phu
Một thứ u sầu chưa tiêu tan được
Ở ngọn núi xa nào đó lại nghe tiếng chuông rền.

Dịch thơ:

Canh khuya áo nhẹ sương dày
Nghe quanh bên gối tiếng chày gần xa
Thấp cao át tiếng tù và
Dưới trăng đứt nối lan hòa tiếng sâu
Mộng hồn thú phụ tan mau
Gợi tình ngụy khuyết mối sầu chinh phu
Khối buồn mãi chẳng tan cho
Núi xa đâu đó chuông chùa lại ngân.
                               Đỗ Đình Tuân
                                  (Dịch thơ)

4/11/2014
Đỗ Đình Tuân

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

ĐẾM TIỀN

Ông ngồi giương kính đếm tiền Đồng tiền mỏng thế mà liền với xương Tiền này là khoản tiền lương Là tiền năm tháng chiến trường cho ta ...