Tích xưa đã chép càn khôn định vị ly khảm nhất phương Thánh tổ họ Hùng dựng xây
cơ nghiệp đạo minh vương thánh đế trên giang sơn muôn dặm. Họ Hùng dựng nghiệp
thống nhất 15 bộ thành bộ tộc lớn, xây cung điện trên đất Việt Trì , sông Bạch
Hạc, trị vì đáats nước hơn hai ngàn năm, truyền 18 chi vua đều lấy hiệu là Hùng
vương. Người sau có thơ rằng:
Vua
Hùng sáng nghiệp đất Nam
phương
Thống
nhất sơn hà nghiệp đế vương
Ngũ Lĩnh Hùng Sơn còn di tích
Hồng Lạc truyền lưu mãi hùng cường.
Sách
chép rằng cơ đồ vua Hùng truyền ngôi 18 đời đều lấy hiệu là Hùng Vương, đóng đô
ở thành Phong Châu, lấy quốc hiệu là Văn Lang. Đến đời vua thứ 18, vua sinh được 12 hoàng nam và 6 công chúa nhưng sau chỉ còn
hai công chúa. Công chúa thứ nhất là Tiên Dung lấy Chử Đồng Tử. Công chúa thứ
hai là Mị Nương lấy Tản Viên sơn thánh. Ngôi vua không người thừa kế. Vua bèn
nhường ngôi cho Thục Phán. Thục Phán lên ngôi lấy hiệu là An Dương Vương trị vì
được 15 năm thì bị Triệu Đà là người
phương Bắc sang xâm chiếm. nhà Thục mất. Triệu Đà lên ngôi vua, cha truyền con
nối làm vua được 5 đời.
Từ đấy
nước ta lại thuộc vào Hán, Ngô, Tấn, Tề Lương cai trị 349 năm. Lúc này trời cho
nước Nam sinh hiền chủ là tiền
Lý Nam
Đế lấy lại nước làm vua được 11 năm nước ta lại bị Bắc thuộc cho đến thời Đinh
khởi nghiệp kế đến Lý Trần Lê nước ta mới trở thành một quốc gia phong kiến bền
vững.
Thời tiền Lý Nam Đế thiên hạ
thanh bình, ở Nam Định trấn, Thái Bình phủ, Đông Lan huyện, Cự Đống trang có
một gia đình ông Lưu Công Hùng vợ là Đào Thị Nhã, vốn là người Tây Hán (Trung
Hoa) lánh nạn chạy sang đất Việt đã được 8 đời, nay đã trở thành người Việt.
Vốn nhà hào phú siêng năng sửa sang đạo Phật, luôn luôn làm những việc từ thiện.
Gia đình trở nên khánh kiệt ông phải dậy học và làm thuốc để sinh sống. Trong gia
đình luôn giữ chữ nhân nghĩa, đức hạnh hiền hậu, xử thế khoan hòa, hay làm việc
thiện. Đến thời ông 40 tuổi, bà đã ngoại 30, vào khoảng thượng tuần tháng 7,
ông bà nghỉ trong phòng, vào lúc nửa đêm, bỗng nghe thấy tiếng thần nhân gọi và
nói rằng: “Vợ chồng nhà ngươi luôn làm việc thiện, tâm thành đã cảm động đến
Hoàng Thiên nay trời cho hai ngôi Bạch Ngọc xuống trần để đáp lại công đức cho
họ Lưu có người kế nghiệp”. Ông tỉnh dậy khoác áo ra cửa tạ thần nhưng thần đã
biến mất. Ông cười và nói rằng: “ Việc thần nói vậy thật là huyền ảo”. Ông vào nhà hỏi vợ “nàng có hay biết gì không?”
Bà vui cười nói: “ Có biết”. Ông lại hỏi: “Thần nói thế nào ?” Bà kể lại lời
nói của thần nhân. Ông bà bàn bạc mãi về việc đó. Sáng hôm sau ông bà làm lễ tạ.
Sau đó Đào Thị mang thai, qua 9 tháng 10 ngày , đúng 10 tháng 3 âm lịch bà sinh
ra một bọc 2 chàng trai thiên tư dĩnh dị,mày xanh mặt đẹp, mặt vuông tai to,
ngũ lộ đường đường, tam đình bình đẳng thật khác với người đương thế, hào quang
sán lạn huy hoàng trước cửa, mùi thơm sực nức trong nhà, mưa gió ba ngày không
ngớt. Ông bà vui mừng và hết lòng yêu dấu nuôi dưỡng nâng niu. Bà thường gọi là
chàng cả chàng hai. Đến năm hai chàng được 3 tuổi đã biết kính nhường, nói năng lễ nghĩa. Năm
lên 7 tuổi ông bà làm lễ đặt tên chàng cả
là Dũng, chàng hai là Uy đón thày cho 2 ông học tập. Năm 16 tuổi thiên tư cao
sáng, học lực tinh thông, hay đọc binh thư, thao luyện võ lược. Hai chàng trở
thành người tài nghệ vô song, tiếng tăm lừng danh đương thế. Năm 2 chàng tròn
20 tuổi, thì cả hai ông bà đều từ trần. Hai chàng đã làm lễ an táng cho cha mẹ và phụng thờ đủ 3 năm, trọn niềm
hiếu thảo.
Lúc bấy giờ nước ta nội thuộc nhà
Lương hà khắc, Tiêu tư, Chiêm Thành, Lâm Ấp quấy rối bờ cõi, can qua biên thùy,
giặc giã như ong như kiến , khắp nơi đều vậy, nhân dân trăm bề khốn khổ lầm
than.
Lý Nam
Đế khởi binh đánh giặc, xuống chiếu cho các châu quận, chiêu dụ anh tài võ sĩ tự
nguyện đầu quân đánh giặc giúp nước. Hai anh em ông Lưu Dũng và Lưu Uy tuyển mộ
hương binh gia thần được hơn hai ngàn người lên đường xin vua cho đi đánh giặc.
Nhà vua cho gặp mặt, thấy hai ông ứng đối thông suốt về kế sách, khi tỷ thí lại
thấy hai ông võ nghệ tinh thông, trí dũng hơn người, có tài thao lược nên nhà
vua đã phong cho Lưu Công Dũng làm chánh
nguyên soái, kiêm các đạo thủy bộ chư doanh đại tướng quân; Lưu Công Uy làm Phó
Nguyên soái đại tướng quân cùng tuần
phòng khu Đông Bắc trấn giữ và đề phòng bất trắc. Hai ông bái tạ nhậm chức rồi
đưa quân lên đường, tinh kỳ rợp đất, chiêng trống vang trời, vừa một ngày thì đến
Hải Dương trấn (cổ hiệu là châu Trung Gian gọi là Dương Tuyền), phủ Nam Sách,
huyện Chí Linh, Nam Giản trang. Hai ông hội đồng trú quân cho quân sĩ nghỉ ngơi
ăn uống. Đêm ấy hai ông nằm nghỉ trong miếu dưới thềm nhang án, đang thiêm thiếp
mơ màng thì thấy một nam nhân đầu đội mũ tía, mặc áo ngọc châu, thân hình kỳ
quái từ phía núi rừng đi lại, tự xưng là
sơn thần, hiệu Cao Minh, tên húy là Liệt, phụng mệnh thiên đình làm
thành hoàng bản xứ, cai quản muôn dân. Đất có vua tất có bề tôi, nay hai ngài đem
quân đi dẹp giặc tôi xin tự nguyện đem âm binh đi phù giúp giết giặc lập công.
Sau đó đi vào nơi hiển vị nói to lên một tiếng rồi biến mất. Hai ông tỉnh dậy,
hôm đó là ngày 26 tháng 10 âm lịch.
Sáng hôm sau hai ông cho triệu tập các cụ lão của
Nam Giản trang để hỏi cho tường tận. Các phụ lão thưa rằng: “ Nam Giản trang
chúng tôi vẫn thờ một vị thượng đẳng thần, hiệu là Cao Minh, tên Liệt, tự Hùng
Triều cực kỳ linh ứng”.Hai ông nghe xong nói rằng: “Thật hợp với ý trời, có thần
linh phù giúp quân ta nhất định thắng lợi”. Bèn truyền làm lễ tạ. Rồi hai ông
đi xem xét một lượt thấy địa thế nơi
này long hổ trùng bào,suối nhỏ chảy
quanh, núi cao đột khởi tranh đua với sông hồ, đất bằng tiếp cận với sông núi,
phong cảnh thật đẹp. Hai ông bèn truyền cho sĩ tốt lập một đồn sở chống địch.
Sau đó các vị phụ lão và nhân dân đều
làm lễ tiếp kiến sứ giả rồi cử binh đánh
giặc. Ngay hôm đó hai ông tuyển lựa được 18 đinh tráng bản trang làm gia thần
thủ túc, quân tướng họp mặt rồi cùng Lý bí chia đường đánh giặc, Bắc trục Tiêu
Tư, Nam bình Lâm Ấp, thiên hạ thanh bình, quốc gia an thái.
Lý Bí yên vị làm vua xưng vị hiệu
là Lý Nam Đế, đóng đô ở thành Long Biên, đổi niên hiệu là Thiên Đức, lấy quốc
hiệu là Vạn Xuân, đại khai khánh hạ phong thưởng tướng sĩ . Chánh nguyên soái
Dũng Công được phong làm Lễ bộ thượng thư, Phó Nguyên soái Uy Công được phong
làm Hình bộ thượng thư, phong tứ mã loan xa, áo mũ triều phục. Hai ông nhân đó
thưa rằng: “Hai anh em thần phá được Chiêm Thành Lâm Ấp là nhờ có lòng trời
giúp đỡ linh thần phù trợ mới lập được công lao như thế”. Bèn xa giá lên đường
về đồn sở ở trang Nam Giản làm lễ tạ ơn linh thần. Nhân dân gia thần đều cùng dự
lễ và tâu rằng: “từ khi hai ông lập đoanh đồn
ở đây nhân dân được yên tĩnh, làm ăn giầu có, lễ nghĩa khang thịnh, được
như vậy cũng là nhờ uy đức của hai ông. Nhân dân coi hai ông như bậc phụ mẫu,
muôn đời không quên công đức của hai ông”. Hai ông nghe vậy rất lấy làm hân hạnh,
bèn truyền mổ lợn giết trâu mở yến tiệc chiêu đãi nhân dân. Mọi người cả già lần
trẻ đều tâu rằng: Nơi yến tiệc hôm nay sau này sẽ là nơi thờ tự hai ông”. Hai
ông đáp rằng: “ Anh em ta phá được Lâm Ấp, phụng mệnh triều đình về triều nhậm
chức, trên đường chinh phạt qua đây, thấy sơn thủy hữu tình, nhân dân thuần hậu,
mới thiết lập đồn sở chống giặc. Nay anh em ta về đây để bái tạ linh thần đã
phù giúp. Anh em ta có di mệnh mãi mãi
sau này bản trang phải phụng thờ vị thần ở đây”. Hai ông lại cho vàng để mua ruộng
sung vào việc tế tự. Mọi người đang ăn uống vui vẻ thì bỗng nhiên trời đất tối
sầm, mưa gió dữ dội, ngày tối như đêm, có một đám mây vàng từ trên trời sa xuống
yến sở như xa giá nghiêng xuống. Lúc sau trời quang mây tạnh, thấy hai ông cưỡi
ngựa bay lên mây theo đường núi biến mất. Hôm đó là ngày 20 tháng 12 âm lịch.
Nhân dân viết biểu sớ kể rõ ràng
sự việc tâu lên nhà vua. Vua cảm động và nhớ công lao to lớn của hai ông, tận
trung với nước, có nghĩa vua tôi, bèn phong sắc cho ba vị:
-Nhất phong Cao Minh hiển ứng hiệp linh phù chính đại
vương.
-Nhất phong Minh Đạo phả hóa hùng
tuấn anh linh đại vương.
-Nhất phong Minh Đức quảng hộ đại
vương.
Sắc chỉ cho Nam Giản trang lên
kinh thành đón sắc phong về lập miếu thờ tại đồn sở nơi thiết yến trước đây để
phụng thờ mãi mãi dài lâu cùng đất nước.
Từ đó về sau theo niệm trước linh
ứng các đời vua đều có gia phong mĩ tự cho ba vị đại vương.
Thời Trần Nhân Tông, quân Nguyên
sang xâm lược. Nhà vua cử ông Trần Quốc Tuấn về làm lễ kỳ đảo bách thần . Ông
đã về làm lễ tại miếu Nam Giản trang cầu nguyện ba vị đại vương âm phù thảo tặc
cũng có linh ứng, sớm ngày xuất trận đã thắng quân Nguyên. Vì thế vua Trần cũng
gia phong mĩ tự cho ba vị đại vương:
-Nhất
gia tặng Cao Minh hiển ứng hiệp linh phù chính dực vận tán trị hiển ứng anh triết
chiêu văn phả hóa bác đạt phong công tổng kính chính trực thượng đẳng thần.
-Nhất
gia phong Minh Đạo hiển ứng hộ quốc an dân cương chính bác đạt hồng ân hiển
thánh hựu dực vận tán trị phong công vĩ
tích hùng lược trác úy thượng đẳng thần.
-Nhất
gia phong tặng Minh Đức linh ứng hùng uy chí lược tế thế an dân hậu đức hoành
hưu quảng hộ đôn nghị trung đẳng thần.
Đến
thời Lê Thái Tổ khởi nghĩa Lam Sơn đánh giặc Minh là Mộc Thạnh và Liễu Thăng
cũng đến làm lễ ở miếu Nam Giản trang có hiển ứng, mười năm đại định được thiên
hạ. Thái Tổ biểu phong mĩ tự ba vị đại vương: thượng đẳng thần sắc chỉ ban cấp
Nam Giản trang trùng tu miếu tự để phụng thờ, quy định kiêng tên húy của ba vị
đại vương là Liệt, Dũng, Uy và thể lệ thờ tự:
-Ngày
sinh thần là ngày 10 tháng 3 chính lệ mổ trâu giết lợn tế lễ 6 ngày, sướng ca
tùy ý.
-Ngày
hóa của thần là ngày 20 tháng 12 chính lệ tùy nghi, cấm sướng ca.
-Ngày
thần hiện là ngày 26 tháng 10 tùy nghi ca hát.
-Ngày
xuân kỳ khánh hạ mồng 7 tháng Giêng tùy nghi xướng ca.
Hồng Đức nguyên niên
Hàn lâm Lễ bộ đông các học sĩ
Nguyễn Văn Bính phụng chỉ.
Chung
tất
11/11/2014
Đỗ Đình Tuân
Kinh nhỉ . Anh có mang theo cả sách lên đó sao hay sưu tầm ở mô rứa?
Trả lờiXóa