Thứ Ba, 17 tháng 8, 2021

DỊCH THÊM ÁI SƠN CỦA NGUYỄN PHONG*

 


愛山 Ái Sơn

吾何愛,愛隹山 Ngô hà ái, ái duy san
不遠湮霞遠世間 Bất viễn yên hà viễn thế gian
举目有天雲色五 Cử mục hữu thiên vân sắc ngũ
低頭滿地草花閒 Đê đầu mãn địa thảo hoa nhàn
梅嘲雪曉知春暖Mai trào tuyết hiểu tri xuân noãn
栢立冬風茂歲寒Bách lập đông phong mậu tuế hàn
風雨不迷填海志Phong vũ bất mê điền hải chí
葉舟寧待泛长瀾Diệp chu ninh đãi phiếm tràng lan.

Dịch nghĩa:

Yêu núi

Ta thích gì? Chỉ thích núi thôi,
Không xa mây khói mà xa cõi đời
Ngước mắt trông trời có mây năm sắc
Ngẩng đầu nhìn đất hoa cỏ xanh tươi
Hoa mai cười tuyết, biết khí xuân ấm đã đến
Cây bách tươi tốt lúc gió đông chịu được khí lạnh
Mưa gió không làm nản chí định lấp bể
Thuyền lá dành chơi khoảng sông dài.

Dịch thơ:

Yêu núi

Yêu gì ? yêu núi quê ta
Không xa mây khói mà xa cõi đời
Ngẩng nhìn năm sắc mây trời
Cúi trông đầy đất hoa tươi cỏ tràn
Mai cười tuyết biết xuân sang
Thông xanh gió rét đông hàn đến nơi
Sấm mưa không nản chí người
Một con thuyền lá du chơi nghìn trùng.
Đỗ Đình Tuân dịch thơ

Ghi  thêm bản dịch cũ:

Ta yêu gì ? Chỉ yêu núi đây
Xa cõi đời nhưng gần khói mây
Ngửa mặt nhìn trời mây ngũ sắc
Cúi đầu ngắm đất có hoa đầy
Hoa cười tuyết sáng hay xuân ấm
Bách trước gió hàn rõ dáng ngay
Lấp biển chí trai lòng chẳng đổi
Sấm mưa thêm giục cánh buồm bay.

*Nguyễn Phong (1542-1625): Người làng Kiệt Đặc (nay thuộc phường Văn An, thành phố Chí Linh),Tự Tuyết Đường, hiệu là Thiềm Tấu. Ông còn để lại 2 bài thơ: Ái Sơn và Ngụ Hứng.                                                                                                                                                                                                                                                                                           


Chủ Nhật, 15 tháng 8, 2021

DỊCH THƠ HẠ TRI CHƯƠNG

 DỊCH HỒI HƯƠNG NGẪU THƯ
 CỦA HẠ TRI CHƯƠNG

Hạ Tri Chương (chữ Hán: 賀知章; 659 - 744), người Vĩnh Hưng, Việt Châu (nay là Tiêu Sơn, tỉnh Chiết GiangTrung Quốc), tự Quý Chân (季真), hiệu Thạch Song (石窗), cuối đời xưng hiệu là Tứ Minh cuồng khách (四明狂客) là một thi nhân nổi tiếng thời Đường. Đương thời, ông cùng với Trương HúcTrương Nhược HưBao Dung được gọi là Ngô trung tứ sĩ (Bốn danh sĩ đất Ngô). Hạ Tri Chương còn là bạn vong niên với Lý Bạch, dù hơn Lý đến hơn bốn chục tuổi. Tương truyền, khi đọc đến các bài thơ Thục đạo nanÔ thê khúc, ông cảm thán nói Lý: "Này con trai, cậu chính là tiên mắc đọa (Trích tiên nhân)". Hai người kết bạn rất thân.

Tác phẩm nổi tiếng nhất của ông trong lịch sử văn học Trung Quốc là hai bài thơ theo thể thất ngôn tứ tuyệt có tên gọi là Hồi hương ngẫu thư (Về quê tự dưng viết).Sách Toàn Đường thi sưu tầm lại được 20 bài thơ, trong đó hai bài Hồi hương ngẫu thư là nổi tiếng nhất, được ông sáng tác khi từ quan về quê thăm nhà sau hơn năm mươi năm xa cách.

  Hồi hương ngẫu thư kỳ 1

,Thiếu tiểu ly gia, lão đại hồi,
。Hương âm vô cải, mấn mao tồi.
,Nhi đồng tương kiến, bất tương thức,
。Tiếu vấn, khách tòng hà xứ lai?

Dịch nghĩa

Tuổi trẻ ra đi, già mới về,
Giọng nhà quê vẫn không đổi, râu tóc đã rụng hết.
Trẻ con trong thấy, không nhận ra,
Cười hỏi, khách từ phương nào đến?

Dịch thơ

Trẻ đi già mới trở về
Tóc râu rụng hết giọng quê vẫn còn
Về làng gặp lũ trẻ con
Chúng cười hỏi lão người phương nào về ?
Đỗ Đình Tuân dịch thơ



  Hồi hương ngẫu thư kỳ 2

,Ly biệt gia hương tuế nguyệt đa,
。Cận lai nhân sự bán tiêu ma.
,Duy hữu môn tiền Kính hồ thuỷ,
。Xuân phong bất cải cựu thời ba. 

Dịch nghĩa

Xa cách quê nhà đã nhiều năm tháng,
Gần đây xóm làng con người nửa đã thay đổi mất.
Duy chỉ có Kính hồ ở trước cửa,
Gió xuân về vẫn không thay đổi con sóng xưa.

 Dịch thơ

Xa quê mấy chục năm liền
Gần đây người vật đều thêm tồi tàn
Duy còn hồ Kính trước làng
Gió xuân vẫn gợn những làn sóng xưa.
Đỗ Đình Tuân dịch thơ

16/08/2021
Đỗ Đình Tuân


ĐẾM TIỀN

Ông ngồi giương kính đếm tiền Đồng tiền mỏng thế mà liền với xương Tiền này là khoản tiền lương Là tiền năm tháng chiến trường cho ta ...