Bài 17
Dữ bản huyện doãn Nguyễn
nguyên doãn Trần đồng ẩm tức tịch thư tiễn
Nguyên tác và phiên âm:
與本縣尹…
|
Dữ bản huyện doãn…
|
一別琴聲十五年
|
Nhất biệt cầm thanh thập
ngũ niên
|
中間消息兩茫然
|
Trung gian tiêu tức lưỡng
mang nhiên
|
更知後會為何日
|
Cánh tri hậu hội vi hà nhật
|
忽漫相逢是別筵
|
Hốt mạng tương phùng thị
biệt diên
|
送客重吟江上句
|
Tống khách trùng ngâm giang
thượng cú
|
憂時難補劍南扁
|
Ưu thời nan bổ kiếm nam
thiên
|
吾儕行止猶如是
|
Ngô thời hành chỉ do như
thị
|
休怪青蛾不値錢
|
Hưu quái thanh nga bất trị
tiền
|
Dịch nghĩa: Cùng ông huyện họ Nguyễn và ông huyện cũ
họ Trần uống rượu, viết bài này ngay trên tiệc để tiễn biệt.
Xa cách tiếng đàn đã mười lăm năm
Trong thời gian ấy tin tức hai bên đều mờ mịt
Còn biết đâu cuộc họp sau này là ngày nào
Bỗng chốc gặp nhau lại ở trên tiệc tiễn biệt
Đưa khách lại một lần ngâm câu Giang thượng 1
Lo đời nhưng khó nối tiếp được tập thơ Kiếm Nam 2
Bọn chúng ta đi hay ở mà còn như thế
Thì trách gì khách mày ngài không đáng đồng tiền nữa 3!
Tiễn người quen 4
Tiếng cầm gửi mười lăm năm trước
Nhẫn 5 về sau tin tức lờ mờ
Hội vui biết đến bao giờ
Biết đâu cùng gặp lại vừa tiễn nhau
Bến Tầm Dương gặp câu giang thượng
Thơ Kiếm nam còn thoảng làm chi
Lũ ta cũng chẳng ra gì
Tiền đâu mua lấy nga my 6 cho hoài
Dịch thơ: Viết trên bàn tiệc tiễn nhau
Xa nhau đã mười lăm năm
Tin qua tin lại biệt tăm mịt mờ
Gặp nhau nào biết bao giờ
Bỗng nhiên gặp lại lại từ biệt nhau
Biệt nhau giang thượng ngâm câu
Kiếm nam khó tiếp dù đau nỗi đời
Chúng ta còn chửa ra người
Trách sao được khách mày ngài cho đây ?
Đỗ Đình
Tuân
(Dịch thơ)
Chú thích:
1.Giang thượng:
theo bản dịch của tác giả thì chữ Giang
thượng đây chỉ bến Tầm Dương bên Trung Quốc. Bài Tỳ Bà Hành của Bạch Cư Dị,
nhà thi hào đời Đường, mở đầu bằng câu: “Tầm
Dương giang đầu dạ tống khách” (Bến Tầm Dương canh khuya đưa khách)
2. Tập thơ Kiếm Nam: ý nói mình có lòng lo đời
như Lục Du đối với cuộc suy sụp của nhà Tống nhưng không làm được tập thơ Kiếm Nam như Lục Du.
3. Nguyên chú: khi ta mới đỗ thi hương, có cô đào hát đến
mừng, đến nay gần 15 năm lại gặp cô ở đây.
4. Tiễn người quen: tác
giả tự dịch bài thơ này
5. Nhẫn: tiếng cổ,
có nghĩa là từ đấy trở đi. Cụ thể câu 2 có nghĩa là “từ đó trở về sau tin tức
qua lại không rõ nữa (không có tin tức gì)
6. Nga my: Mày
ngài, danh từ chỉ người thiếu nữ đẹp.
17/11/2014
Đỗ Đình Tuân
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét