145. Cam đường 1
Thấy
bóng cam đường nhớ Thiệu Công 2
Đất
dư dời được 3 bạn cùng thông
Bút
thơ đã chép hương còn bén 4
Ngâm
ngợi nào ai chẳng động lòng.5
1. Cam đường: cây cam đường hay còn gọi là đường lê quả ăn
được.
2. Thiệu
Công: Thiệu Công Thích đời Chu Vũ Vương đi kinh lý nước Nam thường ngồi
dưới gốc cây cam đường để nghỉ ngơi. Khi Thiệu Công đi rồi nhân dân nhớ công đức
làm thơ cam đường ca ngợi. Sau được sưu tập vào Kinh Thi
Thánh bài
Cam đường ở thiên Thiệu Nam.
3.Đất dư dời
được: Ý nói đã trông được cây cam đường bên cạnh cây thông
4. Câu 3 ý
nói đức chính của thiệu công đã được chép thành thơ để lưu truyền mãi mãi.
5. Câu 4 ý
nói: mỗi khi ngâm ngợi bài thơ cam đường thì ai cũng rung động.
246. Trường An hoa
1
Ấy
chẳng Tây Thi thì Thái Chân
Trời
cho tốt lạ mười phân
Ngày
chầy điểm đã phong quần đỏ
Rỡ
tư mùa một thức xuân.
1. Trường
An hoa: hoa trường an, nhưng chưa rõ là hoa gì
2. Trường
An: Kinh đô nhiều triều đại của Trung hoa từ Tần đến Đường. Sau thành tên chung
để chỉ kinh đô. “Chẳng thơm cũng thể hoa
nhài, chẳng lịch cũng thể con người Tràng An” (Người Thăng Long, Hà Nội
xưa)
3. Tây
Thi: Người đẹp nổi tiếng của nước Việt
thời Xuân Thu.
4. Thái
Chân: tức Dương Quý Phi vợ yêu của Đường Minh Hoàng
5. Rỡ tư
mùa: rực rỡ quanh năm.
247. Dương 1
Chiếm
được thiều quang 2 chín mươi
Day
day 3 hoa nở tốt hòa tươi
Đông
phong 4 có ý bù trì nữa
Một
phút xuân là một động người.
1. Dương:
lọi cây cùng họ với Liễu nhưng lá không rủ mềm như liễu
2. Thiều
quang: ánh nắng mùa xuân
3. Day
day: lay động
4, Đông
phong: gió xuân
CẦM THÚ MÔN
(Mục
chim thú)
248. Lão hạc 1
Ngẫm
hay sự thế nhẹ bằng lông
Ăn
uống không nài bổng Vệ Công 2
Lầu
nguyệt 3 đã quen tiên thổi địch 4
Non
xuân từng bạn khách ăn thông 5
Cánh
xâm bạch tuyết mười phần bạc
Đính
6 nhuộm đan sa chín chuyển hồng 7
Nghìn
dặm trời dầu đủng đỉnh
Kham
cười 8 anh vũ 9 mắc chưng lồng.
1. Lão hạc:
chim hạc
2. Vệ
Công: tức Vệ Úy Công. Tả truyện chép
rằng Ý Công nước Vệ thích chim Hạc, đi xe cũng choc him hạc cùng đi. Khi có người
Di, Dịch xâm lược, tướng sĩ kêu rằng “sao không sai hạc đi đánh giặc ? Hạc còn
có lộc vị, chứ chúng tôi không có lộc vị, đánh thế nào được”. (TVG)
3. Lầu
nguyệt: tức lầu Hoàng Hạc; Vũ Nguyên Hành có câu: “Hoàng hạc lầu trung nguyệt tịnh
câu” (Trong lầu Hoàng Hạc mặt trăng như lưỡi liềm” (TVG)
4. Tiên thổi
địch: theo Liệt tiên toàn truyện Phí
Văn Vĩ đắc đạo thành tiên, thường đến uống rượu ở một quán vùng Giang Hạ, nợ tiền
đến mấy năm mà chủ quán vẫn không kêu ca. Phí Văn Vĩ bèn vẽ lên vách một con hạc,
khách đến cứ vỗ tay là con hạc lại nhảy múa làm vui. Nhờ thế quán rượu giầu lên
gấp bội. Qua mười năm sau, Phí Văn Vĩ lại đến, thấy chủ quán đã giầu có, liền cầm
ống địch thổi mấy bài, chốc lát con hạc bay đến trước mặt, tiên Phí Văn Vĩ bèn
cưỡi hạc bay đi. Chủ quán bèn dựng lầu ở nơi đó gọi là Lầu Hoàng Hạc.
5. Khách
ăn thông: Liệt tiên truyện chép rằng
xưa Ốc Thuyên tu tiên, thích ăn quả thông, thân trở nên nhẹ có thể bay được
(TVG)
6. Đính:
chỉ mào của con Hạc
7. Đan sa
chín chuyển hồng: xưa các đạo sĩ luyện đan sa thường nấu chín lần thành mầu đỏ
thắm để làm thuốc trường sinh gọi là phép “cửu chuyển linh đan”. Cả câu tả mào
con hạc đỏ thắm như như màu đan sa đã luyện chín lần.
8. Kham cười:
đáng cười, nực cười
9. Anh vũ:
chim vẹt
249. Nhạn trận 1
Nước
dãy triều cường 2 chín bãi đầy
Làm
kỳ chính 3 khéo nên bầy
Đàn
4 chìm đạn ngọc sao bắc
Phất
dõi cờ lau 5 gió tây
Thu
phát lệnh nghiêm 6 bài đỗ gấp
Sương
thanh 7 bảng nhặt 8 tiếng kêu chày 9
………………………………………
Từ
tái 10 đường nghèo lòng mựa ngây.
1. Nhạn trận:
nhạn bay dàn hàng
2. Nước
dãy triều cường: nước đầy lên khi triều cường
3. Làm kỳ
chính: kỳ là lối đánh khác thường (du kích), chính là lối đánh chính quy
4. Đàn: bắn
cung đầy loại đạn đá đi (khác với Xạ là bắn cung đẩy mũi tên đi)
5. Phất
dõi cờ lau: Bông lau phất như cờ bay, gió tây (gió thu)
6. Thu
phát lệnh nghiêm: Mùa thu đã đưa tin rét đến
7. Sương
thanh: sương trong, sương lạnh
8. Bảng nhặt:
bảng theo hiệu lệnh nghiêm nhặt
9. Tiếng
kêu chầy: tiếng kêu chậm chạp, thủng thẳng
10. Tử
tái: tức Nhạn môn quan, một cửa ải nằm ở tỉnh Sơn Tây Trung Quốc. Tương truyền
chim nhạn bay về phương Nam
là xuất phát từ đó
250. Điệp trận 1
Làm
sứ đi thăm 2 tin tức xuân
Xòe
hai cánh nhẹ mười phân
Nội
hoa 3 chớp chớp 4 vây đòi hỏi 5
Doanh
liễu 6 khoan khoan khéo lữa lần
Thục
đế để thành leo lét
Phong
vương 7 đắp lũy khóc rân
Chúa
xuân dìu dập dư ba tháng
Mắng
cầm ve 8 mới đỗ quân.
1. Điệp trận:
đàn bướm
2. Làm sứ
đi thăm: cũng như ong bướm được xem như vị sứ giả báo tin xuân
3. Nội
hoa: bãi hoa, đồng hoa
4. Chớp chớp:
cánh bướm xòe cụp chấp chới
5. Vây đòi
hỏi: xúm lại
6. Doanh
liễu: tức doanh Tế Liễu, nơi đóng bản doanh của tướng nhà Hán là Chu Á Phu.
7. Phong
vương: chỉ con ông chúa
8. Mắng cầm ve: nghe tiếng đàn ve.
251. Miêu 1
Lọ vằn 2 sinh bởi mãi phương
tây 3
Phụng sự Như Lai trộm phép thầy 4
Hơn chó được ngồi khi diện bếp 5
Tiếc hùm chẳng bảo chước leo cây 6
Đi
nào kẻ cấm buồng the kín 7
Ăn
đợi ai làm bàn soạn 8. đầy
Khó
lẫn sang chăng lỡ phụ
Nhân
chưng hận chuột phải nuôi mày.
1. Miêu:
con mèo
2. Lọ vằn:
lọ lem, vằn vện, chỉ sắc lông loài mèo
3. Tương
truyền loài mèo sinh ra từ đất Phật bên nước Tây Trúc (Ấn Độ)
4. Vắng sư
thì loài mèo trèo lên nằm cả với tượng Như Lai
5. Diện bếp:
quay mặt vào bếp
6. Theo cổ
tích thì thày mèo dạy vó cho hổ nhưng không dạy hổ phép leo cây để phong bất trắc
về sau.
7. Nơi buồng
the kín đáo cũng không ai cấm được mèo đến.
8. Bàn soạn:
mâm cỗ.
02/10/2015
Đỗ Đình Tuân
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét