Thứ Bảy, 30 tháng 1, 2016

Phú nôm cổ 3








                            



                                          Hàn nho phong vị phú



                                                      Nguyễn Công Trứ

Nguyễn Công Trứ (1778-1858), người làng Uy Viễn, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh, đỗ giải nguyên năm 41 tuổi, làm quan suốt triều Minh Mệnh và Thiệu Trị, về hưu năm 70 tuổi. Trong đời làm quan, ông được thăng và bị giáng rất nhiều lần, có lần bị cách tuột chức tước, sung lính thú. Ông thường được phái đi đánh dẹp các cuộc khởi nghĩa. Ông lại có tài kinh tế, đến đâu thường bày vẽ sinh kế cho dân. Ông đã từng giúp dân khai phá đất hoang, lập nên hai huyện Tiền Hải (Thái Bình) và Kim Sơn (Ninh Bình).
Về sự nghiệp văn học, Nguyễn Công Trứ còn để lại khá nhiều thơ thất ngôn và ca trù bằng quốc âm và một bài phú nôm nổi tiếng Hàn nho phong vị phú. Dưới đây là toàn văn bài phú này

Chém cha cái khó !
Chém cha cái khó !
1.
Khôn khéo mấy ai ?
Xấu xa một nó !
2.
Lục cực 1 bày hàng sáu, rành rành kính huấn chẳng sai;
Vạn tội 2 lấy làm đầu, ấy ấy ngạn ngôn hẳn có.
Kìa ai:
3
Bốn vách tường mo
Ba gian nhà cỏ
4
Đầu kèo mọt tạc vẽ sao 3;
Trước cửa nhện giăng màn gió.
5
Phên trúc ngăn nửa bếp nửa buồng;
Ống nứa đựng đầu kê đầu đỗ.
6.
Đầu giường tre, mối giũi quanh co;
Góc tường đất giun đùn lố nhố.
7.
Bóng nắng giọi trứng gà 4 trên vách, thằng bé tri trô;
Hạt mưa xối hang chuột trong nhà, con mèo ngấp ngó.
8.
Trong cũi lợn nằm gặm máng, đói chẳng muốn kêu;
Đầu giàn chuột lóc 5 khua niêu, buồn thôi lại bỏ.
9.
Ngày ba bữa vỗ bụng rau bình bịch, người quân tử ăn chẳng cần no;
Đêm năm canh an giấc ngày kho kho, đời thái bình cửa thường bỏ ngỏ.
10.
Ấm trà góp lá bàng lá vối, pha mùi chát chát chua chua
Miếng trầu têm vỏ mận vỏ dà, buồn miệng nhai nhai nhổ nhổ.
11.
Áp vải thô nặng trịch, lạnh làm mền, nực làm gối, bốn mùa thay đổi bấy nhiêu;
Khăn lau giắt đỏ lòm, trải làm chiếu, vận làm quần, một bộ ăn chơi quá thú.
12
Đỡ mồ hôi võng lác quạt mo;
Chống hơi đất dép da guốc gỗ.
13
Miếng ăn sẵn cà non mướp luộc, ngon khéo là ngon
Đồ chơi nhiều quạt sậy điếu tre, của đâu những của.
14
Đồ chuyên trà ấm đất sứt vòi
Cuộc uống rượu be sành chắp cổ
15
Đồ cổ khi bức tranh treo trên vách, khói bay lem luốc, màu thủy mặc mờ mờ;
Của tiểu đồng pho sách gác đầu giàn, dán nhấm lăm nhăm, dầu thổ châu 6 đo đỏ.
16.
Cỗ bài lá ba đời cửa tướng, hàng văn hàng sách lờ mờ
Bàn cờ săng bảy kiếp nhà ma, chữ nhật chữa điền vẹo vọ.
17.
Lộc nhĩ điền 7 lúa chất đầy giường;
Phương tịch cốc khoai vừa một giỏ.
18.
Tiêu dụng lấy chi mà phao phóng, thường giữ ba cọc, ba đồng;
Mùa màng dành để có bao nhiêu, chừng độ một chiêng, một bó.
19.
Mỏng lưng xem cũng không giầu;
Nhiều miệng lấy chi cho đủ.
20.
Đến bữa chưa sẵn bữa, con trẻ khóc dường ong
Quá kỳ lại hẹn kỳ, nhà nợ kêu như ó.
21.
Thuốc men rắp bòn chài gỡ bữa, song nghĩ câu ý dã 8, thế nào cho đáng giá lương y;
Thầy bà mong dối trá kiếm ăn, lại nghĩ chữ dũng như, phép chi được nổi danh pháp chủ.
22.
Quẻ dã hạc 9 toan nhờ lộc thánh, trút muối bỏ biển ta chẳng bõ bèn;
Huyệt chân long toan bán đất trời, ngôi mả táng cha tìm con chửa chộ 10.
23.
Buôn bán  rắp theo nghề đỏ, song lạ mặt chúng hòng rước gánh, mập mờ nên hàng chẳng có lời;
Bạc cờ toan gỡ cơn đen, chưa sẵn lưng làng lại dành nơi, hỏi gạn mãi, dạm không ra thổ.
24.
Gấp khúc lươn nên ít kẻ yêu vì;
Giương mắt ếch biết vào đâu mượn mõ.
25.
Đến lúc niên chung nguyệt quý, lấy chi tiêu đồng nợ đồng công?
Gặp khi đường sẩy chân cùng, nên phải tới cửa này cửa nọ.
26.
Thăn thỉ to to nhỏ nhỏ, ta đà mỏi cẳng ngồi trì
Dần dà nọ nọ kia kia, nó những vuốt râu làm bộ
27.
Thầy tớ sợ men tìm đến cửa, ngảnh mặt cúi đầu;
Chị em e vất lấm vào lưng, chìa môi nhọn mỏ.
28.
Láng giếng ít kẻ tới nhà;
Thân thích chẳng ai nhận họ.
29.
Mất việc toan giở nghề cơ tắc 11, tủi con nhà mà hổ mặt anh em;
Túng đường mong quyết chí cùng tư 12 , e phép nước chưa nên gan sừng sỏ.
30.
Cùng con cháu thuở nói năng chuyện cũ, dường ngâm câu lạc đạo vong bần 13;
Gặp anh em khi bàn bạc sự đời, lại đọc chữ vi nhân bất phú.
31.
Tất do thiên, âu phận ấy là thường
Hữu kỳ đức, ắt trời kia chẳng phụ
32.
Tiếc tài cả phải phạn ngưu, bản trúc 14 dấu xưa ông Phó, ông Hề;
Cần nghiệp nho khi tạc bích tụ huỳnh 15 thuở trước chàng Khuông, chàng Vũ
33.
Nơi thành hạ gieo cần câu cá, kìa kìa người quốc sĩ Hoài âm 16;
Chốn lý trung xách thớt chia phần, nọ nọ đấng mương thần Dương Võ 17.
34.
Khó ai bằng Mãi Thần, Mông Chính 18 , cũng có khi ngựa cưỡi dù che;
Giầu ai bằng Vương Khải, Thạch Sùng 19 cũng có hội tường xiêu ngói đổ.
Mới biết:
35
Khó bởi tại trời;
Giầu là cái số !
Dù ai ruộng sâu trâu nái, đụn lúa kho tiền, cũng bất quá thủ tài chi lỗ 20.


Ghi chú:
1. Lục cực: sáu điều khốn  ( chết non, ốm đau, lo phiền, nghèo đói, xấu xa, yếu hèn)
2. Vạn tội: do câu “Vạn tội bất như tội bần”
3. Mọt sao: dấu mọt ăn thành lỗ như sao
4.Trứng gà: mái thủng, nắng xuyên qua chiếu lên vách to như quả trứng gà
5.Chuột lóc: chuột mon men đến
6. Chổ châu: son đất
7. Lộc nhĩ điền: “nhĩ điền” là ruộng của mày. Lộc nhĩ điền (lộc ruộng của mày) Phương tịch cốc: bài thuốc uống để khỏi phải ăn cơm
8. Ý dã: từ câu “Y giả ý dã” (làm thuốc cốt bới cái ý)
9. Dã hạc: quẻ bói
10. Chộ : thấy, gặp (tiếng địa phương
11.Cơ tắc: đói  thì làm bậy
12. Cùng tư: từ câu “Tiểu nhân cùng tư lạm hĩ” (Kẻ tiểu nhân cùng khổ thì làm bậy)
13. Lạc đạo vong bần: vui đạo mà quên đi sự nghèo khó
14. Phạn ngưu, bản trúc: chăn trâu, xây đắp. Ông Phó là ông Phó Duyệt người đời nhà Thương, khi còn hàn vi đi gánh đất đắp tường, giúp vua nhà Thương thành nghiệp vương. Ông Hề tức ông Bách Lý Hề, người đời Xuân Thu có lúc phải đi chăn trâu, sau làm tướng giúp vua nhà Tần nân nghiệp bá.
15. Tạ bích: xoi vách. Chàng Khuông tức Khuông Hành đời Hán nhad nghèo, ham học, đêm không có dầu thường xoi lỗ ở vách để cho ánh đèn nhà người khác giọi vào mà học. Tụ huỳnh: nhặt đom đóm: Xa Dận người dơid Tấn nhà nghèo, nhặt đom đóm để vào đẫy để có ánh sáng mà đọc. Chàng vũ(chưa rõ là người nào?
16. Hoài Âm. Quê Hàn Tín đời Hàn, khi còn nghèo khổ thường đi câu cá, sau làm tướng.
17.Dương Võ: Trần Bình người đời Hán quê ở Dương Võ, lúc còn nghèo thường phải coi việc cắt thịt chia phần cho người làng, sau làm quan trở thanh một mưu thần rất giỏi.
18. Chu Mãi Thần người đời Hán. Lã Mông Chính người đời Tống, cả hai người này đều nghèo mà sau làm nên
19.Vương Khải, Thạch Sùng. Hai người rất giầu đời Hậu Tấn, nhưng sau gia sản đều bị tiêu tan.
20. Thủ tài chi lỗ: lỗ đây là giặc. “thủ tài chi lỗ” một tên giặc giữ của” không làm nên sự nghiệp gì.


30/01/2016

Đỗ Đình Tuân

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

ĐẾM TIỀN

Ông ngồi giương kính đếm tiền Đồng tiền mỏng thế mà liền với xương Tiền này là khoản tiền lương Là tiền năm tháng chiến trường cho ta ...