TÀI TỬ ĐA CÙNG PHÚ
Vài
nét vế tác giả
Cao
Bá Quát (1809-1855) hiệu Chu Thần, người xã Phũ Thị huyện Gia Lâm tỉnh Bắc Ninh
(nay thuộc Hà Nội).Ông đỗ cử nhân làm quan nhỏ ở Bộ Lễ. Bị tố cáo chữa quyển
cho thí sinh (vì tiếc văn hay mà phạm Trường quy), trong khi chấm thi, nên bị
cách chức cho đi hiệu lực quân thứ, nhờ vậy được biết Tân Gia Ba (Singapore) và
các đảo Nam Dương (Indonesia). Về sau ông được phục chức, đổi ra làm giáo thụ
phủ Quốc Oai (nay thuộc Ba Vì, Hà Nội). Là một danh sĩ đời Thiệu Trị và Tự Đức,
ông bị dìm vì có tư tưởng ngang tàng, bất khuất, thương dân, lo đời. Ông tham
gia cuộc khởi nghĩa nông dân do Lê Duy Cự cầm đầu, xuất phát ở huyện Mỹ Lương
(nay Là Mỹ Đức, Hà Nội), tục gọi là giặc Châu Chấu. Ông làm quân sư cho Lê Duy
Cự. Quân khởi nghĩa bị đánh vỡ ở Quốc Oai năm 1855, ông bị chết ở trận ấy. (Có
thuyết nói ông bị bắt và bị xử trảm năm 1854 (?) *.
Cao
Bá Quát để lại một số ca trù, thơ, phú, câu đối chữ nôm và mấy tập thơ chữ Hán
có giá trị: Chu Thần thi tập, Cúc Đường thi loại, Mẫn Hiên thi tập, Mẫn hiên
thi loại.
·
Theo
thuyết này thì trước khi lên máy chém, Cao Bá Quát còn đọc hai câu thơ để đời:
Ba hồi trống dục đù cha kiếp
Một nhát gươm đưa đéo mẹ đời
Một nhát gươm đưa đéo mẹ đời
Văn bản bài phú:
Có một người :
1
.Khổ dạng trâm
anh 1
Nết na chương
phủ 2
2.
Hơi miệng sữa
tuổi còn giọt máu, nét hào hoa chừng ná Tân, Dương 3 !
Chòm tóc xanhvừa
châm ngang vai, lời khí nghiệp những so Y, Phó 4.
3.
Nghiên gợn sóng
vẽ vời điển tịch 5 , nét nhạn điểm lăn tăn!
Bút vén mây dìu
dặt văn chương, vòng thuyền khuyên lỗ chỗ.
4.
Nghiêng cánh
nhạn tếch mái rừng Nhan, Khổng 6, chí xông pha nào quản chông gai!
Cựa đuôi kinh
toan vượt bể Trình, Chu 7 tài bay
nhảy ngại chi lao khổ!
5.
Lắc bầu rượu dốc
nghiêng non nước xuống, chén tiếu đàm 8 mời mọc trích tiên 9
;
Hóng túi thơ
nong hết gió trăng vào, cơn xướng họa thì thầm lão Đỗ 10 !
6.
Tươi nét mặt thư
sinh lồ lộ, bưng mắt trần toan đập cửa phù đồ 11;
Rửa buồng gan du
tử nhơn nhơn, giương tay tạo rắp xoay cơn khí số 12.
7.
Tưởng đến khi
vinh hiển đã am tường;
Song nghĩ lại
trần ai không đếch chỗ.
8.
Lều nho nhỏ kéo
tấm tranh lượp tượp, ngày thê lương hạt nặng giọt mưa sa;
Đèn cỏn con gọn
chiếc chiếu lôi thôi, đêm tịch mịch soi chung vừng nguyệt tỏ.
9.
Áo Trọng Do 13
bạc thếch, giãi xuân thu cho đượm sắc cần lao;
Cơm Phiếu Mẫu 14
ẩm sì, đòi tuế nguyệt phải ngậm mùi tân khổ.
10.
Gió trăng rơi
rụng, để cái quyên gầy;
Sương tuyết hắt
hiu, làm con nhạn võ.
11.
Túi thanh bạch
ngược xuôi miền khách địa, trăm nghìn đường chỉ nhện dệt thưa mau;
Đèn toan hàn 15
thức nhắp mái nam song 16
dăm ngọn lửa huỳnh 17 khêu nho nhỏ.
12.
Miệng châu quế
rì rầm học vấn, chị chú Tô 18 cẳn nhẳn chỉ hiểm nghèo
Vai tân sài 19
đủng đỉnh ngâm nga, vợ anh Mãi 20 băn khoăn từng kể khó.
13.
Đói rau rừng
thấy thóc Chu mà trả, đá Thú Dương chơm chởm
xanh mắt Di 21 nằm tót ngáy o o;
Khát nước sông,
trông dòng đục không vơ, phao vị thủy lênh đênh, bạc đầu Lã 22 ngồi
dai ho khù khụ.
14.
Trông ra hấp nhố
sóng nhân tình;
Ngảnh lại vật vờ
mây thế cố.
15.
Ngán nhẽ kẻ tham
bề khóa lợi 23 mũ cánh chuồn đội trên mái tóc, nghiêng mình đứng chực chốn hầu môn
Quản bao người
mang cái giàm danh 24 , áo giới lân 25 trùm dưới cơ phu,
mỏi gối quỳ mòn sân tướng phủ
16.
Khéo ứng thù
những các quân trên;
Xin bái ngảnh
cùng anh phường phố.
17.
Khét mùi thế vị
chẳng thà không!
Thơm nức phương
danh nên mới khổ.
18.
Tính uốn éo muốn
vạch trời lên hỏi, nào kiếp Chử Đồng 26 đâu tá, nỡ hoài chi chén
ngọc để trần ai?
Trí lắng lơ toan
vượt bể đi tu, hỏi quê Tiêu tử nơi mô, xin lính lấy vân đan 27 làm
tế độ.
19.
Bài phú Dương
Hùng 28 dầu nghiệm tá, thì xin quyết tống bần ra đến miền Đông Hải,
để ta đeo vòng thư kiếm, quyết xoay Bạch Ốc lại lâu dài
Câu văn Hàn Dũ 29
hẳn thiêng chăng, thì xin quyết
tống cùng thần ra đến Côn Lôn, để ta gánh vác giang sơn, quyết ném thanh khâm
sang cẩm tú 30.
20.
Nhọc nhằn cơn
nhục mát cơn vinh;
Cay đắng lúc
cùng bùi lúc phú
Vậy có lời dặn
bảo thế gian rằng;
21.
“Đừng thấy người
bạch diện thư sinh
Mà cười rằng đa
cùng tài tử”
- Trâm anh: dòng dõi nhà quan. (Trâm, cái gài tóc.Anh, dải mũ. Đồ đùng của con nhag quyền quý)
- Chương phủ: thứ mũ của các sĩ phu.đội về đời nhà Thương
- Tân, Dương: Lạc Tân Vương và Dương Quýnh là hai người trong 4 nhà thơ lớn đời sơ Đường.
- Y, Phó: Y Doãn, Phó Duyệt là hai người tài giỏi đời Thương
- Điển tịch: Điển là điền chương, phép tắc. Tịch là sổ sách
- Nha, Khổng: Khổng Tử và Học trò là Nhan Uyên.
- Trình, Chu:Hai an hem ông Trình Hiệu, Trình Di và ông Chu Hy là những bậc danh nho đời Tống.
- Tiếu, đàm: vui cười nói chuyện
- Trích Tiên: Tiên: bị đày. Có người đời Đường khen Lý Bach là một vị Trích Tiên.
- Lão Đõ: tức Đỗ Phủ thi hào đời Đường.
- Phù đồ: Đạo Phật, chùa Phật. “Bưng mắt trần toan đạpcửa phù đồ”, ý nói muốn đạp đổ đạo Phật để nó khỏi lừa đối, bừng mắt người đời. Có ý kiến giải thích:Đạp cửa nhà Phật, dùng con mắt trần của mình để nhìn thấu suốt nghiệp kiếp ở sau cưẢ ẤY.
- Xoay cơn khí số: Xoay khí số loạn lạc trở lại trị bình
13. Trọng Do: Tên tự của Tử Lộ là họctrò Khổng
Tử. Tử Lộ nhà nghèo thường đội gạo để nuôi mẹ
14. Cơm Phiếu Mẫu: người đàn bà giặt thuê, thấy
Hàn Tín đói, cho cơm ăn, sau Tín làm nên trả ơn nghìn vàng.
15. Toan hàn: khổ sở rét mướt, ý nói cảnh học
trò nghèo.Nam song: cửa sổ phía Nam
16. Nam
song: cửa sổ phiÁ Nam
17. Lửa huỳnh : lửa đom đóm. Xa Dận bắt đom đóm
cho vào vỏ trứng để học đêm.
18. Chị chú Tô: lúc Tô Tần chưa làm nên, chị đâu
không thổi cơm cho ăn
19. Tân sài:Củi. Mãi Thần vừa gánh củi vừa đọc
sách.
20. Vợ anh Mĩa: vợ Chu Mãi Thần, thấy chồng
nghèo bỏ đi lấy chồng khác.
21. Di: vua Chu Vũ vương diệt nhà Thương, Bá Di
cho là phi nghĩa, đi ở ẩn trong núi Thú Dương, ăn rau vi chứ không ăn thóc nhà
Chu. Xanh mắt Di, ý nói đói quá, đói xanh cả mắt.
22.Lã: Lã Vọng ngồi câu cá ở sông Vị Thủy.
23.Khóa lợi: Do chữ “lợi tỏa” dịch nghĩa ra: cái
lợi nó trói buộc người ta.
24.Giàm danh: Danh tiếng ví như cái Giàm, cái
cương trói người ta. Do chữ “danh cương” dịch nghĩa ra.
25. Áo giới lân: áo quan võ. Cơ phu: da thịt
26. Chử Đòng: nàng Tiên Dung con gái Hùng Vương
đi tắm gặp Chử Đồng tử kết làm vợ chồng.
27. Vân đan: thuốc tiên
28. Phú Dương Hùng: Dương Hùng đời Hán làm bài
phú “Trục bần” (đuổi cái nghèo).
29.Văn Hàn Dũ: Hàn Dũ đời Đường làm bài văn “Tống
cùng” (tống tiễn sự cùng khổ).
30. Thanh Khâm: Ý nói học trò nghèo mặc áo xanh.
Cẩm tú: gấm thêu. “ném thanh khâm sang cẩm tú”: đổi nghèo hèn sang giầu sang.
28/01/2016
Đỗ Đình Tuân
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét