Thứ Ba, 26 tháng 1, 2016

Phú nôm cổ 1





Nguyễn Hãng



Nguyễn Hãng (?-?) là danh sĩ đời Lê Tương Dực, hiệu là Nại Hiên, không rõ năm sinh, năm mất, quê làng Xuân Lũng (làng Dòng), phủ Lâm Thao, trấn Sơn Tây (nay thuộc huyện Lâm Thao, tỉnh Phú Thọ).

Ông sinh ra trong một gia đình nghèo, mẹ ông bán quán bên bờ đê sông Hồng. Ông đỗ hương cống đời Lê, khi Mạc Đăng Dung chuyên quyền, ông bỏ quan, ở ẩn nơi Đại Đồng, thuộc huyện Yên Bình, tỉnh Tuyên Quang (nay thuộc huyện Yên Bình, tỉnh Yên Bái).

Nhà Mạc nhiều phen vời ông ra làm quan, nhưng ông từ chối. Về sau, khi nhà Lê Trung Hưng phong tặng ông là “Thảo mao dật sĩ” (Người học trò ẩn dật nơi nhà tranh).

Khi ông mất, làng Xuân Lũng quê ông có đền thờ ông gọi là Dật Sĩ từ. 

Ông rất giỏi về văn Nôm và sở trường nhất về lối phú. Những bài phú của ông làm rất nổi tiếng và được người đời khen tặng
 

TỊCH CƯ NINH THỂ PHÚ


Yêu thay miền thôn tịch;
Yêu thay miền thôn tịch!


1.Cư xử dầu lòng;
Ngao du mặc thích.

2. Khéo chiều người mến cảnh yên hà;
Dễ quyến khách vui miền tuyền thạch.

3. Xó xỉnh góc trời mom đất, một bầu thu cảnh mọn hẹp hòi;
Áy o ruộng núi vườn đèo, bốn mùa đủ thứ vui cọc cạch.

4. Nhưng nhưng thói dật hằng vui;
Văng vẳng bụi trần dễ cách.

Vậy nên:
5. Dưỡng tính khề khà;
Náu thân ngờ nghệch.

6.Lều bạch mao mảng học chàng Tôn;
Miền lục dã biếng tìm người Tịch.

7.Che khỏi nắng mưa dầu vậy, trên kết tranh mấy tấm bơ sờ;
Dung vừa ngồi đứng thời thôi, dưới cắm sậy ba gian sộc sệch.

8.Song sớm để bình non vây lại, đặt phên dậu thấp sè;
Cửa hôm dầu đèn Nguyệt soi vào, rủ bức rèm thưa thếch.

9. Khách nhàn họp ba chồi cúc muộn, đứng dựa bên thềm;
Bạn lão sum mấy gốc mai già, chen kề tận nghạch.

10. Gió nhân là quạt mát, điểm trần ai thay thảy tan không;
Nước trí ấy gương trong, miền tục luỵ lâng lâng rửa sạch.

11. Hàng trúc ngăn nửa cửa, nửa sân;
Lá bồng dắt làm tường, làm vách.

14.Cánh sài mòn hé nửa, đi sẽ nghiêng lưng;
Bức thổ chướng dáng ngang, đứng vừa cạp nách.

15.Cảnh hẹp lòng càng rộng, mắc tới lui hằng đủ hằng vui;
Nhà thấp đạo càng cao, dù cúi ngửa chi hiềm chi trách.

Ta thường:
16.Vấn khăn gốc đen sì;
Vận quần nâu đỏ quạch.

17.Mũ để ngăn sương chống tuyết, mũ mỏng bao sang sửa cánh dơi;
Áo vừa ấm cật che hình, áo chẳng lọ phủ phê chân bịch.

18.Hạ làm màn, đông làm nệm mấy lần sô coi đã hẩm sì;
Tay là túi, vạt là khăn ba bức thổn mặc dầu cũ rích.

19.Nằm võng tre ngấn cật vằn vè;
Đi guốc gỗ nhịp chân lạch đạch.

Ăn thì:
20.Tương hạnh chua lòm;
Muối vầu nhạt thếch.

21.Sớm ba chén chè sen mát ruột, nài chi vò đất hẩm hiu;
Bữa vài lưng cơm lốc no lòng, sá quản mâm đan xộc xệch.

23.Vị tươi thường ngọn quất lá vi;
Miếng ngon đủ nhân tùng, hạt bách.

24.Tiệc vầy tiên tử, một niêu canh cẩu kỷ chát sì;
Yến thiết cố nhân, lưng bầu rượu xương bồ cay rách.

25.Thuốc phì phèo quản sậy điếu tre;
Trầu phúm phím vỏ da rễ quạch

26.Ép dưa măng, mài bột củ, những giao cho mụ lão lom khom;
Quét sân lá, hái nương dâu, dầu phó mặc thằng đồng lách chách.

Trong thì:
27.Dấu ngựa xe chẳng đến, cỏ bén hơi xuân;
Bạn viên hạc quen thu, hoa cười đón khách.

28.Cầm một chương, thơ mấy quyển, đủ tháng ngày ngâm ngợi, ấy thú mầu ông Mạnh Hạo Nhiên;
Lan chín khóm, cúc ba hàng, dõi hôm sớm bù trì, này của báu ông Đào Bành Trạch.

Ngoài thì:
29.Rườm rà hàng cổ thụ, lồng những tán dù;
Quanh quất dải kỳ phong, bao làm thành quách.

30.Vượn chào hoà khiếu hót, cách ngàn đưa khúc xướng khúc ca;
Suối chảy lẫn thông reo, bên tai dõi nhịp đàn nhịp phách.

31.Chợ chân tời mây họp đùn đùn;
Chày sườn núi nước đâm thình thịch.

Khi thì:
32.Cầm quạt lá xênh xang;
Quảy túi thơ xốc xếch.

33.Léo đẽo thằng hề mọn, trước ngàn mai thơ thẩn đứng chờ;
Lẳng khẳng cái lừa gầy, bên rừng trúc dần dà sẽ lách.

34.Hem hẻm đường mây lần bước, đứng nhìn non gió thổi hiu hiu;
Phây phây sườn núi rũ dầu, ngồi xem ác bóng đà chênh chếch.

35.Nghiêng giỏ hái rau nương quế, đủng đỉnh nách mang;
Treo bầu chắt nước suối khe, thảnh thơi tay xách.

36.Quét am tiên sớm để luyện đan;
Tựa toà đá hôm dầu xem sách.

37.Nương gậy tre, giày dép cỏ, thửa bước khoan đủng đỉnh, ngồi bên khe nhịp miệng hát ngao;
Rải chiếu lá, ngả giường song, khi hóng mát la cà, về dưới cửa vắt chân nằm đạch.

38.Tính lặng dễ say mùi đạo, gối quyển vàng giấc ngủ ngáy o o;
Mệnh yên xảy tỉnh lòng trần, trỏ mây bạc vỗ tay cười khanh khách.

39.Nghiệm thuở hoa tàn nhị nở, biết tuế thời sớm muộn, điểm tay suy Giáp Tý lân la;
Xem khi yến tới, nhạn về, dòm khí hậu đổi thay, vui dạ nói dương xuân thóc mách.

40.Của thiên nhiên, bạc tuyết đủ dùng;
Giàu thổ sản, tiền rêu để tích.

41. Phương nhân nghĩa để hoà dưỡng tính, báu nhi tôn tráp hãy nặng trầm;
Chữ thanh nhàn nào phải mua ai, tiền mẫu tử túi dầu xóc xách.

42.Cỏ cây thương vì tính lãn dung;
Nước non thấu thửa lòng thanh bạch.

43.Cầm lầu canh ẩn dật, đành hanh rừng gióng điệu chim;
Gảy khúc nhạc ưu du, đồng vọng ao khua trống ếch.

44. Xem một phút diều bay, cá nhảy đành hay lý ngụ huyền vi;
Thấy hai vừng thỏ lặn ác soi, đã biết thửa cơ biến dịch.

45.Thả lòng tham, khơi nguồn dộc, vũng con con thả muống một bè;
Dứt mối tưởng, dũ niềm sầu, vườn mọn mọn trồng huyên mấy rạch.

46.Cảnh chắt chiu nương đậu nương khoai;
Mùa đắp đổi hàng kê hàng mạch.

47.Cày lũng tuyết sớm giong đủng đỉnh, trải thung chè, trèo đèo sở, nẻo tắt hình gối hạc khẳng khhiu;
Hái củi mây hôm quảy xênh xang, qua dặm liễu, tới ngàn sam, đường uốn khúc ruột dê ngóc nghách.

48.Dù ai thăm hỏi nguồn cơn;
Mặc kẻ đón tìm dấu tích.

49.Lắng tai mỏng rành rành lời trước, phải đoái thương tính mệnh, ngoại vật dầu lọn thửa thờ ơ;
Kẻo mình còn lúc nhúc tài hèn, luống dày đội kiền khôn, trong đời chửa chút chi bổ ích.

50.Mênh mông miền bể bạc, màng rủ rê chi giống dầu dầu;
Chất ngất dặm rừng xanh, sá tìm tòi chi loài chích chích.

51.Tuy ngày tháng đà ngày tháng Thuấn, đâu cũng vầng chiếu đất thênh thênh;
Song nước non còn nước non Nghiêu, ta thường vỗ bụng rau phạch phạch.

Người chẳng thấy:
52.Cánh buồm nhẹ giong chơi bể Bắc, kìa anh lánh đục về trong;
Cuộc cờ tàn nằm mát non Đông, nọ kẻ phù nghiêng chữa lệch.

53.Dở dang tuồng canh, mục, ngư, tiều;
Pha phách thói nho, y, đạo, thích.

54.Tựa mây tắm suối, miễn được tiêu dao;
Nương giá phù xa, xá gì bộc bạch.

55.Thong thả một năm mười hai tháng, gặp thời bình trị được làm người;
Ngao du ba vạn sáu ngàn ngày, tới cõi tràng sinh càng dõi mạch.

56.Dù ai cười thơ thẩn ngẩn ngơ;
Thì ta cũng ngô nghê ngốc nghếch.






Theo bản sao của Phạm Trần Đĩnh.
Nguồn: Tạp chí Nam phong, số 95, 1926



 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

ĐẾM TIỀN

Ông ngồi giương kính đếm tiền Đồng tiền mỏng thế mà liền với xương Tiền này là khoản tiền lương Là tiền năm tháng chiến trường cho ta ...