Thứ Năm, 9 tháng 4, 2015

Dịch “Thanh bình điệu” của Lý Bạch




                 

(Năm 743)

Thanh bình điệu là một điệu nhạc danh tiếng được mọi người ái mộ dưới đời Đường. Theo Nhạc sử, trong năm Thiên Bảo, khi Lý Bạch ở toà Hàn Lâm, trong cung mới bắt đầu trồng một loài hoa mẫu đơn rất quý, được gọi là mộc thược dược. Tại đình Trầm Hương, người ta trồng bốn loại quý nhất vừa mới tìm ra. Ngày hoa nở đầu tiên, Đường Minh Hoàng đưa Dương Quý Phi đến thưởng hoa. Ban nhạc do nhạc trưởng Lý Quý Niên điều khiển, toan cất tiếng hát, Đường Minh Hoàng ngăn lại và nói: "Thưởng danh hoa, đối phi tử, sao lại dùng những bài hát cũ?" Rồi Minh Hoàng truyền Lý Quý Niên cầm giấy hoa vàng đòi Lý Bạch đến, bảo Lý Bạch làm ngay ba bài Thanh bình điệu. Bấy giờ Lý Bạch còn say rượu (có nơi nói Dương Quý Phi phải phun nước lạnh vào mặt mới bàng hoàng tỉnh lại) liền vung bút viết ngay ba bài.

Giai thoại này còn thêm một biến cố nhỏ. Cũng trong thời gian được vua yêu chuộng, một hôm trong lúc say rượu, Lý Bạch đã đưa chân cho Cao lực sĩ tháo giày cũ thay giày mới vừa được vua ban sủng ái, Cao lực sĩ đành phải làm nhưng trong lòng căm giận, liền nhân bài hát này, dèm pha với Dương Quý Phi rằng Lý Bạch có ý ngạo mạn khi ví Dương Quý Phi với nàng Triệu Phi Yến (kỳ 2), một phi tần thất sủng của vua Thành Đế nhà Hán. Vì thế mà nhiều lần Minh Hoàng muốn phong quan chức cho Lý Bạch nhưng vẫn không thành, vì Dương Quý Phi cản trở. Lý Bạch không tiến thân được ở Trường An, phải xin vua trở về quê, rồi đi ngao du, vui với danh lam thắng cảnh của miền trung và nam Trung Hoa.

Thanh bình điệu quả là một bài thơ định mệnh. Được quân vương sủng ái, đãi ngộ như tân khách cũng nhờ nó, mà công thành dở dang cũng vì nó. Nhưng có lẽ tiền định cả. Trời cao đã không để cho Lý Bạch say men chính quyền hay nhẹ bước đường mây. Bắt Lý Bạch phải say rượu, say thú phong lưu, say văn chương thi phú, phải dang dở trên đường tiến thân, thì hậu thế mới được thưởng thức mấy ngàn bài thơ trác tuyệt, văn học sử Trung Hoa mới có nhà thơ tiên của vạn đời.

清平調其一

Thanh bình điệu kỳ 1

Vân tưởng y thường hoa tưởng dung,
Xuân phong phất hạm lộ hoa nùng.
Nhược phi Quần Ngọc sơn đầu kiến,
Hội hướng Dao Đài nguyệt hạ phùng.


(Quần Ngọc, Dao Đài theo truyền thuyết là nơi tiên ở)

Dịch nghĩa

Nhìn mây nhớ đến xiêm áo, thấy hoa nhớ đến dung nhan,
Gió xuân thổi nhẹ qua, sương hoa nồng nàn.
Nếu không phải người ở mé núi Quần Ngọc,
Thì cũng là thấy ở dưới trăng chốn Dao Đài.

Đỗ Đình Tuân dịch thơ:

Mây xiêm áo, hoa mặt người
Cửa xuân gió phẩy sương ngời trước hiên
Nếu không đầu núi thấy tiên
Thì sau sẽ gặp dưới đêm trăng vàng.

清平調其二

Thanh bình điệu kỳ 2

Nhất chi hồng diễm lộ ngưng hương,
Vân vũ Vu Sơn uổng đoạn trường.
Tá vấn Hán cung thuỳ đắc tự,
Khả liên Phi Yến ỷ tân trang.

Dịch nghĩa
Một cành màu hồng diễm lệ thơm hương ngưng chỉ
Chuyện mây mưa ở Vu Sơn chỉ luống đau lòng
Xin hỏi thử trong cung thời Hán có ai giống được như vậy
Thương thay nàng Phi Yến phải tô điểm (mà không biết có đẹp bằng không)

Đỗ Đình Tuân dịch thơ:

Cành hồng thơm giọt sương đêm
Vu sơn mây gió chỉ thêm đau lòng
Hán cung ai được thế không
Thương nàng Phi Yến tô hồng điểm son

清平調其三

Thanh bình điệu kỳ 3

Danh hoa khuynh quốc lưỡng tương hoan,
Trường đắc quân vương đới tiếu khan.
Giải thích xuân phong vô hạn hận,
Trầm Hương đình bắc ỷ lan can.

Dịch nghĩa

Danh hoa và khuynh quốc hai bên cùng tươi cười với nhau
Làm cho quân vương đứng nhìn mỉm cười
Bao nhiêu sầu hận trong gió xuân đều tan biến
(Khi thấy nàng) dựa lan can đứng ở mé bắc đình Trầm Hương

Đỗ Đình Tuân dịch thơ:

Danh hoa khuynh quốc ngời ngời
Quân vương đứng ngó nói cười hân hoan
Gió xuân bao hận đều tan
Khi nàng đứng dựa lan can bên đình.

09/04/2015
Đỗ Đình Tuân

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

ĐẾM TIỀN

Ông ngồi giương kính đếm tiền Đồng tiền mỏng thế mà liền với xương Tiền này là khoản tiền lương Là tiền năm tháng chiến trường cho ta ...