Thứ Bảy, 30 tháng 6, 2012

Dịch thơ cổ: Chu Văn An 4


Bài 9
村南山小憩
Thôn Nam sơn tiểu khế
閑身南北片雲輕,
Nhàn thân nam bắc phiến vân khinh, 
半枕清風世外情。
Bán chẩm thanh phong thế ngoại tình.
佛界清幽塵界遠,
Phật giới thanh u, trần giới viễn,
庭前噴血一鶯鳴。
Đình tiền phún huyết nhất oanh minh.
                         朱文安
                    Chu Văn An
Dịch nghĩa
Tạm nghỉ ở núi Thôn Nam
Thân nhàn như đám mây nhẹ bay khắp nam bắc,
Gió mát thổi bên gối, tâm tình để ngoài cuộc đời.
Cõi phật thanh u, cõi trần xa vời,
Trước sân, hoa đỏ như máu, một chiếc oanh kêu.
Dịch thơ
Thân nhàn nam bắc áng mây qua
Nửa gối gió trăng mộng hải hà
Oanh hót trước sân hoa đỏ máu
Thanh u cõi Phật cõi đời xa.
                   Đỗ Đình Tuân dịch

Bài 10
次韻贈水雲道人
Thứ vận tặng Thuỷ Vân đạo nhân
平生膽氣鶚橫秋,
Bình sinh đảm khí ngạc (2) hoành thu, 
翰墨場中一戰收。
Hàn mặc trường trung nhất chiến thu. 
茅屋玉堂皆有命,
Mao ốc ngọc đường (3) giai hữu mệnh,
濁涇清渭不同流。
Trọc Kinh (4) thanh Vị (5) bất đồng lưu. 
老逢昭代知何補,
Lão phùng chiêu đại tri hà bổ,
身落窮山笑拙謀。
Thân lạc cùng sơn tiếu chuyết mưu.
檢點年年貧活計,
Kiểm điểm niên niên bần hoạt kế, 
茶甌詩卷伴湯休。
Trà âu, thi quyển bạn Thang Hưu (6)
.                                  朱文安
                               Chu Văn An
Ghi chú
1. Thuỷ Vân Ðạo nhân: có lẽ là Trần Anh Tông. Anh Tông có sách "Thuỷ Vân tuỳ bút".
2. Chim ngạc: một loài chim bắt cá ở biển, còn gọi là thuỷ ưng hay thư cưu.
3. Nhà ngọc: vua Tống Thái Tông tặng cho viện Hàn lâm thời đó hai chữ "Ngọc đường". ở đây chỉ cảnh hiển đạt của cuộc đời làm quan.
4+5 Sông Kinh, sông Vị: sông Kinh phát nguyên từ Kê Ðầu Sơn thuộc vùng Nguyên Châu; sông Vị phát nguyên từ Ô Thử Sơn thuộc vùng Vị Châu. Hai sông này gặp nhau ở Cao Lăng, mới rõ nước sông Kinh đục, nước sông Vị trong. Hình tượng này dùng trong thơ thường được hiểu theo nghĩa bóng.
6. Chưa rõ là ai. (Theo "Từ nguyên", có thầy tu tên là Thích Huệ Hưu giỏi văn chương, một lần vua Tống Thế Tổ gặp bảo hoàn tục và cho làm tòng sự ở Dương Châu. Phải chăng Thang Hưu tác giả nói là Thích Huệ Hưu?).
Dịch nghĩa
Hoạ vần tặng Thuỷ Vân đạo nhân
Chí khí dũng cảm thuở bình sinh như chim ngạc bay ngang trời thu,
Trong trường bút mực, chỉ một trận là được.
Nhà tranh hay nhà ngọc, đều có số mệnh,
Sông Kinh đục, sông Vị trong, vốn không chảy cùng dòng
Già gặp thời sáng sủa, biết chẳng ích gì,
Thân rơi vào núi thẳm, cười mình mưu vụng.
Hàng năm kiểm điểm lại cái sinh kế nghèo,
Vẫn âu trà, cuốn thơ, làm bạn với Thang Hưu.
Dịch thơ
Bình sinh dũng khí ngạc tung trời
Bút mực trường văn chỉ thắng người
Nhà ngọc lều tranh đều tại số
Vị trong Kinh đục chảy đôi nơi
Thân rơi núi thắm cười mưu vụng
Già gặp thời minh vô ích thôi
Kiểm điểm hàng năm sinh kế bí
Trà âu thơ quyển bạn vui chơi.
                  Đỗ Đình Tuân dịch

Bài 11
望泰陵
Vọng Thái Lăng
松秋深鎖日將夕,
Tùng thu thâm toả nhật tương tịch, 
煙草如苔迷亂石。
Yên thảo như đài mê loạn thạch.
黯淡千山風更愁,
Ảm đảm thiên sơn phong cánh sầu, 
消沉萬古雲無跡。
Tiêu trầm vạn cổ vân vô tích. 
溪花欲落雨絲絲,
Khê hoa dục lạc vũ ti ti,
野鳥不歸山寂寂。
Dã điểu bất đề sơn tịch tịch.
幾度躊躇行復行,
Kỷ độ trù trừ hành phục hành,
平蕪無盡春生碧。
Bình vu vô tận xuân sinh bích.
Dịch nghĩa
Trông về Thái Lăng
Cây tùng cây thu khoá kín trời sắp về chiều,
Cỏ non xanh rợn, như rêu che lấp những hòn đá ngả nghiêng.
Ngàn non ảm đạm, gió thổi càng thêm buồn,
Muôn thuở tiêu tan, mây không để lại dấu vết.
Hoa bên suối sắp rụng, mưa lất phất,
Chim ngoài đồng nội im tiếng, núi quạnh hiu.
Mấy lần dùng dằng, đi rồi lại đi,
Cỏ rậm bát ngát, sắc xuân xanh biếc.
Dịch thơ
Tùng thu khóa kín trời chiều
Ngả nghiêng đá cỏ như rêu xanh rờn
Ngàn non ảm đạm thêm buồn
Tiêu tan muôn thuở mây còn dấu đâu?
Hoa tàn bên suối mưa mau
Không chim nội cỏ một bầu vắng tanh
Dùng dằng đi lại loanh quanh
Cỏ hoang bát ngát xuân xanh biếc trời.
                      Đỗ Đình Tuân dịch

Bài 12
春旦
Xuân đán
寂寞山家鎮日閒,
Tịch mịch sơn gia trấn nhật nhàn, 
竹扉斜擁護輕寒。
Trúc phi tà ủng hộ khinh hàn. 
碧迷草色天如醉,
Bích mê thảo sắc thiên như tuý,
紅濕花梢露未乾。
Hồng thấp hoa tiêu lộ vị can.
身與孤雲長戀岫,
Thân dữ cô vân trường luyến tụ,
心同古井不生瀾。
Tâm đồng cổ tỉnh bất sinh lan.
柏薰半冷茶煙歇,
Bách huân bán lãnh trà yên yết,
溪鳥一聲春夢殘。
Khê điểu nhất thanh xuân mộng tàn.
                                  朱文安
                               Chu Văn An
Dịch nghĩa
Sớm xuân
Nhà trên núi vắng vẻ, suốt ngày thảnh thơi,
Cánh cửa phên che nghiêng ngăn cái rét nhẹ.
Màu biếc át cả sắc mây, trời như say,
Ánh hồng thấm nhành hoa sương sớm chưa khô.
Thân ta cùng đám mây cô đơn mãi mãi lưu luyến hốc núi,
Lòng giống như mặt giếng cổ, chẳng hề gợn sóng.
Mùi khói thông sắp hết, khói trà đã tắt,
Một tiếng chim bên suối làm tỉnh mộng xuân.
Dịch thơ
Trên non nhà vắng ngày nhàn,
Phên nghiêng ngăn ngọn gió hàn nhẹ bay.
Ngút ngàn cỏ biếc trời say,
Cánh hoa thấm ánh hồng lay trước vườn.
Thân như mây bện sườn non,
Lòng như giếng cổ không còn sóng lan.
Khói thông vãn, khói trà tan,
Tiếng chim bên suối kêu tàn mộng xuân. 
                               Đỗ Đình Tuân dịch   

                                                              
 1/7/2012
Đỗ Đình Tuân


Thứ Sáu, 29 tháng 6, 2012

Dịch thơ cổ: Chu Văn An 3


Bài 5

鱉池
Miết trì
水月橋邊弄夕暉,
Thuỷ nguyệt kiều biên lộng tịch huy,  
荷花荷葉靜相依。
Hà hoa hà diệp tịnh tương y.
魚遊古沼龍何在,
Ngư du cổ chiểu long hà tại?
雲滿空山鶴不歸。
Vân mãn không sơn hạc bất quy.
老桂隨風香石路,
Lão quế tuỳ phong hương thạch lộ,
嫩苔著水沒松扉。
Nộn đài trước thuỷ một tùng phi.
寸心殊未如灰土,
Thốn tâm thù vị như hôi thổ,
聞說先皇淚暗揮。
Văn thuyết tiên hoàng lệ ám huy.
                                  朱文安
                             Chu Văn An
Dịch nghĩa
Ao ba ba *
Trăng nước bên cầu đùa giỡn bóng chiều hôm,
Hoa sen, lá sen, yên lặng tựa nhau.
Cá bơi ao cổ, rồng ở chốn nào?
Mây đầy núi vắng, hạc chẳng thấy về!
Mùi quế già bay theo gió làm thơm ngát con đường đá,
Rêu non đẫm nước che lấp cánh cửa thông.
Tấc lòng này vẫn chưa nguội lạnh như tro đất,
Nghe nói đến Tiên hoàng luống gạt thầm giọt lệ
(*Một ao cổ có nuôi thả ba ba trong vùng núi Phượng Hoàng. Nay không còn.)
Dịch thơ

Trăng nước như nô giỡn nắng tà,
Im lìm sen lá tựa sen hoa.
Cá bơi ao cổ rồng đâu tá?
Mây phủ non không hạc vắng nhà.
Cây quế già thơm đường đá ngát;
Đám rêu non phủ cửa thông nhòa.
Tấc lòng chưa nguội như tro đất,
Nhắc đến Tiên Hoàng lệ ứa sa.
    Đỗ Đình Tuân dịch
Bài 6.
月夕步仙遊山松徑
Nguyệt tịch bộ Tiên Du sơn tùng kính
緩緩步松堤,
Hoãn hoãn bộ tùng đê, 
孤村淡靄迷。
Cô thôn đạm ái mê.
潮回江笛迥,
Triều hồi, giang địch quýnh,
天闊樹雲低。
Thiên khoát, thụ vân đê. 
宿鳥翻清露,
Túc điểu phiên thanh lộ,
寒魚躍碧溪。
Hàn ngư dược bích khê.
吹笙何處去,
Xuy sinh hà xứ khứ,
寂寞故山西。
Tịch mịch cố sơn tê (tây)?
                           朱文安
                       Chu Văn An
Dịch nghĩa
Ðêm trăng dạo bước trên đường thông
Thong thả dạo bước trên con đê trồng thông,
Xóm vắng mờ trong làn khói nhạt.
Nước triều xuống, tiếng sáo bên sông xa vẳng,
Trời rộng, mây là là ngọn cây.
Chim đêm cựa mình trong làn sương trong,
Cá lạnh nhảy trong khe biếc.
Người thổi sênh đi nơi đâu,
Phía tây núi cũ vắng vẻ?
Dịch thơ
Bờ đê đủng đỉnh đường thông
Xóm thôn vắng vẻ mây lồng lơ mơ
Triều lui tiếng sáo sông đưa
Trời cao mây thấp mịt mờ ngọn cây
Chim đêm cựa giọt sương lay
Khe sâu biếc lạnh cá bầy lội bơi
Thổi sênh người đã đâu rồi
Phía tây núi cũ một trời vắng không.
                       Đỗ Đình Tuân dịch
Bài 7
初夏
Sơ hạ
山宇寥寥晝夢回,
Sơn vũ liêu liêu trú mộng hồi, 
微涼一線起庭梅。
Vi lương nhất tuyến khởi đình mai. 
燕尋故壘相將去,
Yến tầm cố luỹ tương tương khứ,
蟬咽新聲陸續來。
Thiền yết tân thanh lục tục lai.
點水溪蓮無俗態,
Điểm thuỷ khê liên vô tục thái,
出籬竹筍不凡材。
Xuất ly trúc duẩn bất phàm tài.
棲梧靜極還成懶,
Thê ngô tĩnh cực hoàn thành lãn,
案上殘書風自開。
Án thượng tàn thư phong tự khai.
                           朱文安
                       Chu Văn An
Dịch nghĩa
Đầu hạ
Nhà trên nay vắng vẻ, ngủ trưa tỉnh dậy
Một cơn gió mát nhẹ thổi vào cây mai trước sân
Chim én lũ lượt kéo nhau đi tìm tổ cũ
Ve sầu lục tục bay về, cất tiếng kêu đầu mùa
Hoa sen dưới khe nhấp nhô mặt nước, vẻ thanh tao thoát tục
Chòm măng vươn ra ngoài hàng rào, khác loài tầm thường
Tựa cây ngô đồng, ngồi im lặng mãi trở thành lười biếng
Gió đâu lật mở cuốn sách nát đặt ở trên bàn
Dịch thơ
           Nhà non vừa tỉnh giấc ngày,
           Trước sân gió mát thổi lay cành hòe.
           Én tìm tổ cũ bay đi,
           Ve kêu mùa mới đã về râm ran.
           Sen khe không bợn chút phàm,
           Măng vươn ngoài nội ngang tàng thẳng ngay.
           Phượng hoàng lặng lẽ cành cây,
           Trên yên sách nát gió vầy mở xem.
                          Đỗ Đình Tuân dịch
Bài 8
清涼江
Thanh Lương giang
山腰一抹夕陽橫,
 Sơn yêu nhất mạt tịch dương hoành,
兩兩漁舟畔岸行。
Lưỡng lưỡng ngư chu bạn ngạn hành.
獨立清涼江上望,
Độc lập Thanh Lương giang thượng vọng,
寒風颯颯嫩潮生。
Hàn phong táp táp nộn triều sinh.
                           朱文安
                       Chu Văn An
Dịch nghĩa
Sông Thanh Lương
Một vệt bóng chiều vắt ngang sườn núi,
Dọc theo bờ sông, thuyền câu đi từng đôi một.
Đứng một mình trên sông Thanh Lương ngắm cảnh,
Gió lạnh vi vút, nước triều dâng lên.
Dịch thơ
Sườn non vệt nắng vắt ngang,
Trên sông xuôi mái đôi hàng thuyền câu.
Một mình ngắm cảnh giờ lâu,
Vi vu gió lạnh dòng sâu dậy triều.
           
         Đỗ Đình Tuân dịch

Thứ Năm, 28 tháng 6, 2012

"Rây máu ăn phần" ?






                                                   (Ảnh chụp chiều 21/6/2012)



29/6/2012
Đỗ Đình Tuân

Ghé qua Hải Hậu




                                                    (Hình ảnh chụp chiều 10/6/2012)



29/6/2012
Đỗ Đình Tuân

Dịch thơ cổ: Chu Văn An 2


Bài 2
恭和御制洞章
Cung hoạ ngự chế động chương
庭舞胎禽雲掩關,
Đình vũ thai cầm vân yểm quan, 
露華嚥罷覺清寬。
Lộ hoa yến bãi giác thanh khoan. 
碧桃華下渾無事,
Bích đào hoa hạ hồn vô sự,
時倩東風掃石壇。
Thời thiến đông phong tảo thạch đàn.
                        朱文安
                    Chu Văn An
Dịch nghĩa
Kính hoạ thơ vua
Hạc múa ở sân, mây che ngoài cửa,
Nuốt hoa sương rồi cảm thấy khoan khoái nhẹ nhàng.
Dưới hoa bích đào lòng thanh thản,
Thỉnh thoảng mượn ngọn gió đông quét trên đàn đá.
Dịch thơ
Trước sân hạc múa cửa mây giăng
Vừa nuốt sương hoa thấy nhẹ nhàng
Dưới gốc bích đào lòng  chẳng bợn
Gió đông chốc chốc quét lên đàn.
                         
Đỗ Đình Tuân dịch
Bài 3
江亭作
Giang đình tác
江亭獨立數歸舟,
Giang đình độc lập sổ quy châu,
風急灘前一笛秋。
Phong cấp than tiền nhất địch thu. 
斜日吟殘紅淡淡,
Tà nhật ngâm tàn hồng đạm đạm,
暮天望斷碧悠悠。
Mộ thiên vọng đoạn bích du du.
功名已落荒唐夢,
Công danh dĩ lạc hoang đường mộng,
湖海聊為汗漫遊。
Hồ hải lưu vi hãn mạn du.
自去自來渾不管,
Tự khứ tự lai hồn bất quản,
滄波萬頃羨飛鷗。
Thương ba vạn khoảnh tiện phi âu.
                        朱文安
                    Chu Văn An
Dịch nghĩa
Cảm tác ở đình bên sông
Đứng một mình ở Giang Đình đếm thuyền về,
Trước ghềnh, gió gấp, một tiếng sáo gợi cảm thu.
Thơ đã tàn, mặt trời xế bóng, ánh hồng nhàn nhạt,
Trông suốt trời chiều, màu biếc mênh mông.
Công danh đã rơi vào giấc mộng hoang đường,
Tạm dạo chơi lang thang miền hồ hải.
Đi lại tự mình, chẳng gì trói buộc,
Thèm cảnh chim âu bay liệng trên muôn khoảng sóng xanh.
Dịch thơ
Bên sông mình đứng đếm thuyền qua
Gió gấp triền đê tiếng sáo hòa
Bóng xế ngâm tàn hồng nhạt nhạt

Trời chiều trông khắp biếc bao la
Công danh đã trở thành hoang mộng
Dạo bước lang thang thú hải hà
Tự tới tự lui không bó buộc
Cánh âu bay lượn khoảng trời xa.
                       
Đỗ Đình Tuân dịch
Bài 4
靈山雜興
Linh sơn tạp hứng
萬疊青山簇畫屏,
Vạn điệp thanh sơn thốc họa bình, 
斜陽淡抹半溪明。
Tà dương đạm mạt bán khê minh.
翠蘿徑裏無人到,
Thuý la kính lý vô nhân đáo,
山鵲啼煙時一聲。
Sơn thước đề yên thời nhất thanh.
                        朱文安
                    Chu Văn An
Dịch nghĩa
Tạp hứng ở núi Chí Linh
Muốn lớp núi xanh tụ lại như bức bình phong vẽ,
Bóng chiều nhạt dọi tới sáng nửa lòng khe.
Trong lối cỏ biếc, không người đến,
Thỉnh thoảng một tiếng chim thước kêu trong khói mù.
Dịch thơ
Núi xa lớp lớp như tranh
Con đường cỏ rậm vắng tanh bóng người
Nắng chiều nhạt nửa khe soi
Tiếng chim trong khói cất rồi …lại im…
                             
Đỗ Đình Tuân dịch
28/6/2012
Đỗ Đình Tuân





Thứ Hai, 25 tháng 6, 2012

Dịch thơ cổ: Chu Văn An 1


THƠ CHU VĂN AN
(Đỗ Đình Tuân lấy nguồn từ “Trang thơ Chu Văn An” trên Thi viện.nét)

Bài 1
題揚公水華亭
Đề Dương công Thuỷ Hoa đình
上人遠公裔,
Thượng nhân Viễn công duệ, 
朗悟有高識。
Lãng ngộ hữu cao thức.
屢結白社盟,
Lũ kết bạch xã minh, 
為愛青蓮色。
Vị ái thanh liên sắc.
方塘貯碧漪,
Phương đường trữ bích y,
環以芙蕖植。
Hoàn dĩ phù cừ thực.
上構水華亭,
Thượng cấu thuỷ hoa đình, 
意與蓮比德。
Ý dữ liên tỷ đức. 
好風時一來,
Hảo phong thời nhất lai, 
滿座聞芳馥。
Mãn toạ văn phương phức.
隱幾觀眾妙,
Ẩn kỷ quan chúng diệu, 
悠然心自得。
Du nhiên tâm tự đắc.
不知清淨身,
Bất tri thanh tĩnh thân,
已在荷華側。
Dĩ tại hà hoa trắc.
明月相友朋,
Minh nguyệt tương hữu bằng,
閒雲同偃息。
Nhàn vân đồng yển tức.
渴傾珠露飲,
Khát khuynh châu lộ ẩm,
飢摘玉房食。
Cơ trích ngọc phòng thực.
回頭謝世紛,
 Hồi đầu tạ thế phân
逍遙遊八極。
Tiêu dao du bát cực.

                      朱文安
                    Chu Văn An

Dịch nghĩa
Đề đình Thuỷ Hoa của Dương Công

Thượng nhân là giòng dõi của Viễn công,
Hiểu biết một cách sáng suốt, có kiến thức cao.
Luôn kết lời minh ước ở Bạch Xã,
Vì yêu sắc sen xanh.
Ao vuông chứa đựng nước trong biếc,
Xung quanh trồng toàn sen.
Trên ao dựng ngôi đình Thuỷ Hoa,
Ý chừng muốn sánh đức với sen.
Gió mát thường xuyên thổi tới,
Làm thơm ngát khắp ngôi đình.
Tựa bên ghế để quan sát mọi điều huyền diệu,
Lâng lâng cảm thấy thoải mái trong lòng.
Chẳng biết thân thanh tịnh,
Đã ở bên cạnh đoá hoa sen.
Trăng sáng cùng làm bạn với mình,
Mây nhàn cùng ta nghỉ ngơi.
Khát thì nghiêng rót những hạt sương châu để uống,
Đói thì lấy những chùm quả bằng ngọc mà ăn.
Ngoảnh lại quên hết mọi rắc rối ở đời,
Để nhởn nhơ vui chơi tám cõi.

Dịch thơ
Hậu duệ của Viễn Công
Sáng suốt lại cao thức
Cùng Bạch Xã kết ước
Vì yêu sắc sen xanh
Ao vuông nước trong biếc
Xung quanh trồng toàn sen
Trên dựng Thủy Hoa đình
Ý cùng sen sánh đức
Thường xuyên cơn gió mát
Làm thơm ngát cả vùng
Xem ngắm mọi huyền diệu
Thoải mái lòng lâng lâng
Đâu biết thân thanh tịnh
Đang ở dìa hoa sen
Trăng sáng kết bầu bạn
Mây nhàn cùng nghỉ ngơi
Khát nghiêng sương ngọc uống
Đói ngắt hạt ngọc xơi
Quên hết mọi sự đời
Tám cõi nhởn nhơ chơi.
           Đỗ Đình Tuân dịch

26/6/2012
Đỗ Đình Tuân 


Thứ Bảy, 23 tháng 6, 2012

Dịch thơ cổ: Huyền Quang 5


Bài 21
次寶慶寺壁間題
Thứ Bảo Khánh tự bích gian đề
荒草殘煙野思多,
Hoang thảo tàn yên dã tứ đa,
南樓北館夕陽斜。
Nam lâu Bắc quán tịch dương tà.
春無主惜詩無料,
Xuân vô chủ tích thi vô liệu,
愁絕東風幾樹花。
Sầu tuyệt đông phong kỷ thụ hoa.
                               玄光禪師
                     Huyền Quang thiền sư
Dịch nghĩa
Hoạ bài thơ đề trên vách chùa Bảo Khánh
Cỏ hoang khói nhạt, tứ quê chan chứa,
Lầu Nam quán Bắc dưới bóng chiều tà.
Tiếc thay cảnh xuân không có chủ, thơ không có nguồn thơ,
Mấy cây hoa buồn bã trước gió xuân.
Dịch thơ
Cỏ hoang khói nhạt tứ quê nhiều
Bắc quán nam lâu xế bóng chiều
Tiếc cảnh tiếc thơ không có chủ
Mấy nhành trước gió hoa buồn thiu.
                    Đỗ Đình Tuân dịch

Bài 22
石室
Thạch thất
半間石室和雲住,
Bán gian thạch thất hoà vân trụ, 
一領毳衣經歲寒。
Nhất lĩnh xối y kinh tuế hàn.
僧在禪床經在案,
Tăng tại thiền sàng kinh tại án,
爐殘榾柮日三竿。
Lô tàn cốt đột nhật tam can.
                             玄光禪師
                     Huyền Quang thiền sư
Dịch nghĩa
Nhà đá
Nửa gian nhà đá, ở lẫn cùng mây,
Một tấm áo lông, trải hết mùa đông rét buốt.
Sư ở trên giường thiền, kinh ở trên án,
Lò tàn, củi lụi, mặt trời lên đã ba cây sào.
Dịch thơ
Nửa gian nhà đá ở cùng mây
Trải hết mùa đông tấm áo dầy
Sư tại giường thiền kinh tại án
Lò tàn trời mọc khoảng ba cây.
                Đỗ Đình Tuân dịch

Bài 23
晝眠
Trú miên
祖父田園任自鋤,
Tổ phụ điền viên nhậm tự sừ, 
千青盤屈繞吾盧。
Thiên thanh bàn khuất nhiễu ngô lư.
木犀窗外千鳩寂,
Mộc tê song ngoại thiên cưu tịch, 
一枕清風晝夢餘。
Nhất chẩm thanh phong trú mộng dư. 
                             玄光禪師
                     Huyền Quang thiền sư
Dịch nghĩa
Ngủ ngày
Ruộng vườn của cha ông, mặc sức tự cày cấy,
Ngàn cây xanh quanh co, vấn vít quanh nhà ta.
Trên cây quế ngoài cửa sổ, ngàn con chim cưu vắng tiếng,
Một chiếc gối trong gió mát, giấc mộng ban ngày chưa tàn.
Dịch thơ
Vườn ruộng ông cha tự cấy cầy
Mầu xanh vấn vít quanh nhà vây
Cây ngoài cửa sổ chim cưu vắng
Gió mát say sưa giấc mộng ngày.
                   Đỗ Đình Tuân dịch

Bài 24
春日即事
Xuân nhật tức sự
二八佳人刺繡持,
Nhị bát giai nhân thích tú trì,
紫荊花下轉黃鸝。
Tử kinh hoa hạ chuyển hoàng ly.
可憐無限傷春意,
Khả liên vô hạn thương xuân ý,
盡在停針不語時。
Tận tại đình châm bất ngữ thì.
                             玄光禪師
                     Huyền Quang thiền sư
Dịch nghĩa
Tức cảnh ngày xuân
Người đẹp tuổi vừa đôi tám, ngồi thêu gấm chậm rãi,
Dưới lùm hoa tử kính đang nở, líu lo tiếng chim oanh vàng.
Thương biết bao nhiêu cái ý thương xuân của nàng,
Cùng dồn lại ở một giây phút, đứng kim và im phắc.
Dịch thơ
Giai nhân thêu gấm nhẹ nhàng
Tử kinh hoa nở oanh vàng líu lô
Thương xuân bao ý tình cô
Dồn vào khoảnh khắc lặng tờ ngừng kim.
                       Đỗ Đình Tuân dịch
Bài 25
安子山庵居
Yên Tử sơn am cư
庵逼青霄冷,
Am bức thanh tiêu lãnh, 
門開雲上層。
Môn khai vân thượng tằng.
已竿龍洞日,
Dĩ can Long Động (1) nhật,
猶尺虎溪冰。
Do xích Hổ Khê (2) băng.
抱拙無餘策,
Bão chuyết vô dư sách,
扶衰有瘦藤。
Phù suy hữu sấu đằng.
竹林多宿鳥,
Trúc lâm đa túc điểu,
過半伴閒僧。
Quá bán bạn nhàn tăng.
               玄光禪師
       Huyền Quang thiền sư
Ghi chú
1. Một cảnh đẹp trên núi Yên Tử, có chùa Long Ðộng, Huyền Quang tu ở đấy.
2. Tên một con suối ở vùng Yên Tử
Dịch nghĩa
Ở am núi Yên Tử
Cao sát trời xanh, am thiền mát lạnh,
Cửa mở trên tầng mây.
Trước Long Động mặt trời đã một cây sào,
Dưới Hổ Khê băng còn dầy một thước.
Giữ thói vụng về không có mưu chước gì,
Đỡ tấm thân già yếu đã có chiếc gậy mây khẳng kheo.
Rừng trúc nhiều chim đậu,
Quá nửa làm bạn với nhà sư thanh nhàn.
Dịch thơ
Sát trời am thiền lạnh
Cửa mở giữa tầng mây
Long Động mặt trời mọc
Hổ Khê tuyết phủ dầy
Vụng về không kế sách
Đỡ già gậy một cây
Rừng trúc nhiều chim đậu
Quá nửa bạn sư đây.
          Đỗ Đinhf Tuân dịch

24/6/201
Đỗ Đình Tuân

Thứ Sáu, 22 tháng 6, 2012

Gánh nặng


(Họa nguyên vận bài THƠ của Tạ Anh Ngôi)
Thơ-niềm tâm sự thật sâu xa
Tiếng nói riêng tư của mỗi nhà
Nỗi khát tri âm lòng khẩn thiết
Niềm rung cảm lớn tự nhiên ra…
Cùng kênh thế sự thành tri kỷ
Khác ngõ nhân duyên hóa tháp ngà
Chớ khoác cho thơ nhiều gánh nặng
Vai oằn, thơ lại biến ra ca.
23/6/2012
Đỗ Đình Tuân

Thứ Năm, 21 tháng 6, 2012

Dịch thơ cổ: Huyền Quang 4


Bài 16
泛舟
Phiếm chu
小艇乘風泛渺汒,
Tiểu đĩnh thừa phong phiếm diểu mang,
山青水綠又秋光。
Sơn thanh thuỷ lục hựu thu quang. 
數聲漁笛蘆花外,
Sổ thanh ngư địch lô hoa ngoại,
月落波心江滿霜。
Nguyệt lạc ba tâm giang mãn sương.
                       玄光禪師
             Huyền Quang thiền sư
Dịch nghĩa
Đi chơi thuyền
Chiếc thuyền con lướt gió lênh đênh trên dòng sông bát ngát,
Non xanh, nước biếc, lại thêm ánh sáng mùa thu.
Vài tiếng sáo làng chài ngoài khóm hoa lau,
Trăng rơi đáy sóng, mặt sông đầy sương
Dịch thơ
Cưỡi thuyền lướt sóng mênh mông
Trời thu bát ngát một vùng nước mây
Thuyền ai vài tiếng sáo bay
Trăng rơi sóng nước sương đầy mặt sông
            Đỗ Đình Tuân dịch

Bài 17
過萬劫
Quá Vạn Kiếp
諒州人物水流東,
Lạng Châu nhân vật thuỷ lưu đông,
百歲光陰撚指中。
Bách tuế quang âm nhiển chỉ trung.
回首故山凝望處,
Hồi thủ cố sơn ngưng vọng xứ, 
數行歸雁帖晴空
Sổ hàng qui nhạn thiếp tình không.
                       玄光禪師
             Huyền Quang thiền sư
Dịch nghĩa
Qua Vạn Kiếp
Nhân vật đất Lạng Châu như nước chảy về đông,
Trăm năm bóng quang âm chỉ trong nháy mắt.
Ngoảnh lại non xưa, nhìn đăm đắm,
Vài hàng chim nhạn về Bắc in bóng giữa trời quang
Dịch thơ
Người Lạng châu nước về đông
Trăm năm ngắn ngủi trong vòng búng tay
Ngoái nhìn núi cũ xanh cây
Nhạn về như viết trong mây mấy hàng.
                       Đỗ Đình Tuân dịch
Bài 18
山宇
Sơn vũ
秋風午夜拂簷椏,
Thu phong ngọ dạ phất thiềm nha, 
山宇蕭然枕綠蘿。
Sơn vũ tiêu nhiên chẩm lục la. 
已矣成禪心一片,
Dĩ hỹ thành thiền tâm nhất phiến,
蛩聲唧唧為誰多。
Cung thanh tức tức vị thuỳ đa.
                       玄光禪師
             Huyền Quang thiền sư
Dịch nghĩa
Nhà trong núi
Đêm khuya gió thu sịch động bức rèm,
Nhà núi đìu hiệu gối vào lùm dây leo xanh biếc.
Thôi rồi, lòng ta đã hoàn toàn yên tĩnh,
Tiếng dế vì ai vẫn rầu rĩ mãi.
Dịch thơ
Gió thu xao xác thổi hiên ngoài
Nhà dười vòm cây không bóng ai             
Tấc dạ tu hành theo cõi Phật
Dế kêu rầu rĩ suốt đêm dài  .          
     Đỗ Đình Tuân dịch

Bài 19
贈仕途子弟
Tặng sĩ đồ tử đệ
富貴浮雲遲未到,
Phú quí phù vân trì vị đáo
光陰流水急相催。
Quang âm lưu thuỷ cấp tương thôi. 
何如小隱林泉下,
Hà như tiểu ẩn lâm tuyền hạ,
一榻松風茶一杯。
Nhất tháp tùng phong, trà nhất bôi.
                      玄光禪師
             Huyền Quang thiền sư
Dịch nghĩa
Tặng những con em trên đường sĩ hoạn
Giàu sang như mây nổi, chậm chạp chưa đến,
Quang âm như nước chảy, hối hả giục nhau qua.
Sao bằng về ẩn nơi rừng suối,
Một sập gió thông, một chén trà.
Dịch thơ
Mây nổi giầu sang chậm đến mà
Quang âm hối hả nước trôi qua
Sao bằng về ẩn nơi rừng suối
Một sập gió thông một chén trà.
                 Đỗ Đình Tuân dịch

Bài 20
早秋
Tảo thu
夜氣分涼入畫屏,
Dạ khí phân lương nhập họa bình,
蕭蕭庭樹報秋聲。
Tiêu tiêu đình thụ báo thu thanh. 
竹堂忘適香初燼,
Trúc đường vong thích hương sơ tẫn,
一一叢枝網月明。
Nhất nhất tùng chi võng nguyệt minh.
                     玄光禪師
             Huyền Quang thiền sư
Dịch nghĩa
Buổi đầu thu
Khí đêm chia hơi mát vào bức rèm vẽ,
Cây trước sân xào xạc báo tiếng thu.
Dưới mái tranh quên bẵng hương vừa tắt,
Mấy khóm cây cành giăng lưới vầng trăng sáng.
Dịch thơ
Đêm thu chia mát bức tranh rèm
Xào xạc cây sân lá rụng thềm
Dưới mái tranh quên hương mới tắt
Cành cây giăng lưới bóng trăng đêm.
                      Đỗ Đình Tuân dịch

22/6/2012
Đỗ Đình Tuân

Thứ Tư, 20 tháng 6, 2012

Dịch thơ cổ: Huyền Quang 3


Bài 11
舟中
Chu trung
一葉扁舟湖海客,
Nhất diệp biển chu hồ hải khách,
撐出葦行風搣搣。
Xanh xuất vi hành phong thích thích.
微茫四顧晚潮生,
Vi mang tứ cố vãn triều sinh, 
江水連天一鷗白。
Giang thủy liên thiên nhất âu bạch
                      玄光禪師
             Huyền Quang thiền sư
Dịch nghĩa
Trong thuyền
Một lá thuyền con, một khách hải hồ,
Chèo khỏi rặng lau, tiếng gió xào xạc.
Bốn bề mịt mù, con nước buổi chiều đương lên,
Một chim âu trắng giữa khoảng nước trời liền nhau.
Dịch thơ
Một lá thuyền con khách hải hồ
Rặng lau chèo khỏi gió vi vu
Bốn bề mù mịt triều đang dậy
Trời nước liền nhau âu trắng đua.
                 Đỗ Đình Tuân dịch

Bài 12
延祐寺
Diên Hựu tự (1)
上方秋夜一鐘闌,
Thượng phương du dạ nhất chung lan, 
月色如波楓樹丹。
 Nguyệt sắc như ba phong thụ đan.
鴟吻倒眠方鏡冷,
Si vẫn (2) đảo miên phương kính lãnh,
塔光雙峙玉尖寒。
Tháp quang song trĩ ngọc tiêm hàn.
萬緣不擾城遮俗,
Vạn duyên bất nhiễu thành già tục, 
半點無憂眼放寬。
Bán điểm vô ưu nhãn phóng khoan. 
參透是非平等相,
Tham thấu thị phi bình đẳng tướng,
魔宮佛國好生觀。
Ma cung Phật quốc hảo sinh quan.
                      玄光禪師
             Huyền Quang thiền sư
Ghi chú
1Diên Hựu: tức chùa Một Cột, được vua Lý Thái Tông cho dựng năm Kỷ Dậu (1049), nay vẫn còn ở Hà Nội sau nhiều lần trùng tu.
2 Còn gọi là "si vĩ", là hình những con chim, cú, hoặc rồng được khắc hoặc đắp nổi trên nóc các đình, chùa. Trên nóc cùa Một Cột ngày nay có hình rồng..
Dịch nghĩa  
Chùa Diên Hựu
Đêm thu, trên chùa một tiếng chuông đã tàn,
Ánh trăng như sóng, cây phong lá đỏ.
Bóng "xi vẫn" nằm ngủ ngược dưới mặt hồ như tấm gương vuông lạnh giá,
Hai ngọn tháp đứng song song như ngón tay ngọc rét buốt.
Muôn vàn nhân duyên không vương vấn là bức thành che niềm tục,
Không lo lắng chút gì nên tầm mắt mở rộng.
Hiểu thấu ý nghĩa của thuyết phải trái đều như nhau,
Thì xem cung ma có khác gì nước Phật!
Dịch thơ
Đêm thu chùa vắng chuông tàn
Cây phong lá đỏ trăng tràn sóng rơi
Đáy hồ « Xi vẫn » nằm ngơi
Tháp đôi như ngón tay người lạnh băng
Không lo tầm mắt mênh mang
Không duyên là bức thành ngăn tục niềm
Tỏ tường lý lẽ diệu huyền
Cung ma nước Phật đôi bên khác gì.
                    Đỗ Đình Tuân dịch

Bài 13
梅花
Mai hoa
欲向蒼蒼問所從,
Dục hướng thương thương vấn sở tòng,
凜然孤峙雪山中。
Lẫm nhiên cô trĩ tuyết sơn trung. 
折來不為遮青眼,
Chiết lai bất vị già thanh nhãn,
願借春思慰病翁。
Nguyện tá xuân tư uỷ bệnh ông.
                      玄光禪師
             Huyền Quang thiền sư
Dịch nghĩa
Hoa mai
Muốn ngẩng nhìn trời xanh hỏi hoa mai từ đâu tới,
Lẫm liệt đứng sừng sững một mình trong núi tuyết.
Bẻ về không phải để che mắt những người tinh đời,
Chỉ muốn mượn tứ xuân an ủi ông già ốm yếu.
Dịch thơ
Muốn hỏi từ đâu mai tới đây
Một mình giữa tuyết đẹp xinh thay
Bẻ về đâu dấu già tinh mắt
Mượn tứ xuân vui lão ốm này.
                Đỗ Đình Tuân dịch

Bài 14
午睡
Ngọ thuỵ
雨過溪山淨,
Vũ quá khê sơn tịnh,
楓林一夢涼。
Phong lâm nhất mộng lương. 
反光塵世介,
Phản quang trần thế giới,
開眼醉茫茫。
Khai nhãn tuý mang mang.
                      玄光禪師
             Huyền Quang thiền sư
Dịch nghĩa
Giấc ngủ trưa
Tạnh mưa khe trong núi nước trong
Rừng phong mát mẽ sau giấc ngủ say (mộng).
Nhìn lại cõi trần này.
Khi bừng mắt tỉnh dậy thấy niềm say man mác.
Dịch thơ
Sau mưa khe núi sạch
Rừng phủ giấc mộng vàng
Ngoái nhìn cõi trần thế
Mắt mở lòng mang mang.
Đỗ Đình Tuân dịch

Bài 15
因事題究蘭寺
Nhân sự đề Cứu Lan tự
德薄常慚繼祖燈,
Đức bạc thường tàm kế tổ đăng, 
空教寒拾起冤憎。
Không giao Hàn, Thập (1) khởi oan tăng. 
爭如逐伴歸山去,
Tranh như trục bạn quy sơn khứ,
疊嶂重山萬萬層。
Điệp chướng trùng san vạn vạn tằng.
                       玄光禪師
             Huyền Quang thiền sư
Ghi chú
1.Hàn tức Hàn Sơn, Thập tức Thập Đắc, hai vị sư ở thời Trinh Quán nhà Đường. Theo "Truyện cao tăng" thì sư Phong Can ở chùa Quốc Thanh núi Thiên Thai đi vân du gặp Lư Khâu Dận đi nhậm chức ở Thai Châu, hỏi ở Thai Châu có vị sư nào đạo đức cao siêu không? Sư Phong Can trả lời: "có Hàn Sơn Văn Thù và Thập Đắc Phổ Hiền, hình dáng như người nghèo lại như có chứng phong cuồng, hai vị này ở chùa giữ việc bếp nước". Khi Lưu Khâu Dận đến châu lỵ, vào chùa thấy hai vị sư này, liền sụp xuống lạy. Hai vị nói: "Phong Can rõ thật lắm mồm", rồi cùng nhau chạy trốn, Lư Khâu Dận tìm kiếm di vật, thấy được lời kệ của Thập Đắc và hai tập thơ của Hàn Sơn tử.
Dịch nghĩa
Nhân có việc đề ờ chùa Cứu Lan
Thường thẹn mình đức mỏng mà được nối ngọn đèn Tổ,
Luống để cho Hàn Sơn và Thập Đắc phải sinh niềm oán giận.
Chi bằng theo bạn về núi,
Sống giữa muôn vạn tầng núi non trùng điệp.
Dịch thơ
Thẹn mình đức mỏng nối đèn sư
Thập Đắc, Hàn Sơn giận oán cho
Chi bằng theo bạn vào khe suối
Sống giữa muôn trùng núi nhấp nhô.
                        Đỗ Đình Tuân dịch

21/6/2012
Đỗ Đình Tuân


           






Thứ Ba, 19 tháng 6, 2012

Bài thơ của một lão du kích


(Sáng tác thời kháng chiến chống Pháp: 1946-1954)

              Chồng em

Người ta mặt trận xông pha
Chồng em nhút nhát chẳng ra cái gì
Ngày ba bữa chén tì tì
Hãy nói kháng chiến thì ỳ mặt ra
Gặp người  khách lạ ba hoa
Nói thánh nói tướng tỏ ra anh hùng
Chợt nghe thấy tiếng nổ ùng
Chồng em hốt hoảng lăn đùng xuống ao
Dân quân đắp lũy đào hào
Chồng em nhăn nhó rằng tao nhức đầu
Có tiền bạc ác cơ cầu
Chồng em không giúp đồng bào tản cư
Việc gì cũng chỉ ậm ừ
Hễ ai hỏi đến: “Đợi u nó về”
Không làm lại cứ hay chê
Anh kia cấc lấc chị kia lắm điều
Dân quân luyện tập chiều chiều
Chồng em mắc võng nằm khoèo ru con
Chẳng lo việc nước việc non
Chồng em như thế có buồn hay không ?
                                    Dương Quốc Trấn
                                    (Trại Nẻ, An Lạc)

Đỗ Đình Tuân
(Sưu tầm) 

Dịch thơ cổ: Huyền Quang 2


Bài 6
菊花其二
Cúc hoa kỳ nhị
大江無夢浣枯腸,
Đại giang vô mộng hoán khô tràng,
百詠梅花讓好粧。
Bách vịnh mai hoa nhượng hảo trang.
老去愁秋吟未穩,
Lão khứ sầu thu ngâm vị ổn,
詩瓢實為菊花忙。
Thi biều thực vị cúc hoa mang.
                             玄光禪師
                     Huyền Quang thiền sư
Dịch nghĩa
Hoa cúc kỳ 2
Không mơ lấy nước sông lớn rửa tấc lòng khô héo,
Hoa mai từng được trăm bài thơ vịnh kia phải nhường vẻ đẹp
Già rồi lại buồn vì thu, chưa làm thơ được,
Nhưng túi thơ bầu rượu thật vì hoa cúc mà bận rộn.
Dịch thơ
Không mơ sông lớn rửa lòng khô
Vẻ đẹp hoa mai phải nhượng cho
Già đến buồn thu chưa vịnh được
Rượu bầu thơ túi rộn vì thơ.
                     Đỗ Đình Tuân dịch

Bài 7
菊花其三
Cúc hoa kỳ tam
忘身忘世已都忘,
Vong thân, vong thế, dĩ đô vong, 
坐久蕭然一榻涼。
Toạ cửu tiêu nhiên nhất tháp lương.
歲晚山中無歷日,
Tuế vãn sơn trung vô lịch nhật,
菊花開處即重陽。
Cúc hoa khai xứ tức trùng dương (1)
.                             玄光禪師
                     Huyền Quang thiền sư
Ghi chú
1.Tức ngày mồng 9 tháng 9 âm lịch. Theo thuyết âm dương đời cổ, thì số 9 thuộc về dương. Hôm ấy tháng và ngày đều nhằm số 9, nên gọi là "tiết trùng dương".
Dịch nghĩa
Hoa cúc kỳ 3
Quên mình, quên đời, đã quên tất cả,
Ngồi lâu trong hiu hắt, mát lạnh cả giường.
Cuối năm ở trong núi không có lịch,
Thấy cúc nở biết rằng đã tiết trùng dương.
Dịch thơ
Lặng trên giường mát ta ngồi
Quên mình, quên hết sự đời bấy nay
Cuối năm ngày tháng nào hay
Nhìn hoa cúc nở biết ngày trùng dương.
                         Đỗ Đình Tuân dịch
Bài 8
菊花其四
Cúc hoa kỳ tứ
年年和露向秋開,
Niên niên hoà lộ hướng thu khai, 
月淡風光愜寸懷。
Nguyệt đạm phong quang thiếp thốn hoài. 
堪笑不明花妙處,
Kham tiếu bất minh hoa diệu xứ,
滿頭隨到插歸來。
Mãn đầu tuỳ đáo sáp quy lai.
                              
玄光禪師
                     Huyền Quang thiền sư
Dịch nghĩa
Hoa cúc kỳ 4
Hàng năm hoa nở vào thu cùng với sương móc.
Trăng thanh trời quang đãng, thỏa thích tấc lòng
Ðáng cười ai không rõ sự huyền diệu của hoa,
Bất cứ tới đâu (thấy hoa) cắm đầy đầu mang về.
Dịch thơ
Sương móc vào thu hoa nở mau
Trăng thanh gió nhẹ thỏa lòng nhau
Cười ai không rõ hoa huyền diệu
Cứ ngắt hoa đem dắt kín đầu.
        
      Đỗ Đình Tuân dịch
Bài 9
菊花其五
Cúc hoa kỳ ngũ
花在中庭人在樓,
Hoa tại trung đình nhân tại lâu,
焚香獨坐似忘憂。
Phần hương độc toạ tự vong ưu.
主人與物渾無競,
Chủ nhân dữ vật hồn vô cạnh,
花向群方出一頭。
Hoa hướng quần phương xuất nhất đầu.
                              
玄光禪師
                     Huyền Quang thiền sư
Dịch nghĩa
Hoa cúc kỳ 5
Hoa ở dưới sân, người trên lầu,
Một mình thắp hương ngồi tự nhiên quên hết phiền muộn.
Người với hoa hồn nhiên không tranh cạnh,
Trong các loài hoa thì cúc trội hơn một bậc.
Dịch thơ
Hoa ở dưới sân người ở lầu
Thắp hương độc tọa sạch lo âu
Hồn nhiên hoa chẳng ganh người vậy
Trong các loài hoa cúc đứng đầu.
                   
Đỗ Đình Tuân dịch
Bài 10
菊花其六
Cúc hoa kỳ lục
春來黃白各芳菲,
Xuân lai hoàng bạch các phương phi, 
愛艷憐香亦似時。
Ái diễm liên hương diệc tự thì. 
遍界繁華全墜地,
Biến giới phồn hoa toàn truỵ địa,
後彫顏色屬東籬。
Hậu điêu nhan sắc thuộc đông ly (1)
Ghi chú
1.
Thơ Đào Tiềm: Thái cúc đông ly hạ (Hái hoa cúc ở giậu phía đông). Đào Tiềm là người rất thích trồng cúc.
Dịch nghĩa
Hoa cúc kỳ 6
Xuân đến hoa vàng hoa trắng đều ngát thơm,
Đúng thì, vẻ đẹp đáng yêu, hương thơm đáng chuộng đều giống nhau.
Nhưng khi các loài hoa tươi tốt khắp nơi đều đã tàn rụng,
Thì nhan sắc phai nhạt sau cùng là bông hoa ở giậu phía đông.
Dịch thơ
Xuân đến trắng vàng đều ngát hương
Đang thì hương sắc thảy tương đương
Nhưng khi loài khác mau tàn rụng
Phai nhạt sau cùng hoa giậu đông.
                  
Đỗ Đình Tuân dịch

20/6/2012
Đỗ Đình Tuân


ĐẾM TIỀN

Ông ngồi giương kính đếm tiền Đồng tiền mỏng thế mà liền với xương Tiền này là khoản tiền lương Là tiền năm tháng chiến trường cho ta ...