Thứ Hai, 4 tháng 6, 2012

Dịch thơ cổ: Nguyễn Trãi 17


Bài 6
戲題
Hí đề
閑來無事不清哦,
Nhàn lai vô sự bất thanh nga, 
塵外風流自一家。
Trần ngoại phong lưu tự nhất gia.
珪璧千重開疊巘,
Khuê bích thiên trùng khai điệp nghiễn,
玻瓈萬頃漾晴波。
Pha lê vạn khoảnh dạng tình ba.
管弦嘈雜林邊鳥,
Quản huyền tào tạp lâm biên điểu,
羅綺芳芬塢裡花。
La ỷ phương phân ổ lý hoa.
眼底一時詩料富,
Nhãn để nhất thì thi liệu phú, 
吟翁誰與世人多。
Ngâm ông thuỳ dữ thế nhân đa.
                                 阮廌
                           Nguyễn Trãi
Dịch nghĩa
Đề vui
Khi nhàn rỗi, không việc gì mà không ngâm nga thanh nhã
Ta tự là bậc phong lưu ngoài cõi tục
Núi non trùng điệp mở ra như ngọc khuê ngọc bích
Nước trong sóng sánh như muôn khoảnh pha lê
Chim bên rừng ríu rít như đàn sáo
Hoa trong giậu như lụa là thơm ngát
Nơi đáy mắt nhà thơ, một khi đã giàu thi liệu
Thì nhà thơ với người đời, ai hơn ai ?
Dịch thơ
Khi nhàn không việc lại ngâm nga
Ngoài tục phong lưu tớ nhất nhà
Ngọc đẹp mở ra nghìn núi thẳm
Pha lê lóng lánh vạn trùng xa
Tiếng đàn tiếng sáo như chim hót
Bên dậu hoa leo tựa lụa là
Đáy mắt một khi nhiều cảnh sắc
Người đời mấy kẻ sánh thi gia.
                
Đỗ Đình Tuân dịch
Bài 7
即興
Tức hứng
攬翠亭東竹滿林,
Lãm Thuý đình (1) đông trúc mãn lâm,
柴門晝掃凈陰陰。
Sài môn trú tảo tịnh âm âm. 
雨餘山色清詩眼,
Vũ dư sơn sắc thanh thi nhãn,
潦退江光凈俗心。
Lạo thoái giang quang tịnh tục tâm.
戶外鳥啼知客至,
Hộ ngoại điểu đề tri khách chí, 
庭邊木落識秋深。
Ðình biên mộc lạc thức thu thâm.
午窗睡醒渾無寐,
Ngọ song thuỵ tỉnh hồn vô mị,
隱几焚香理玉琴
Ẩn kỷ phần hương lý ngọc cầm (2).
                                 阮廌
                           Nguyễn Trãi

Ghi chú
1. Nhà nhỏ nơi nắm cả màu xanh của cảnh vật. Trong Truyện Kiều của Nguyễn Du có hai câu thơ tả cảnh như sau (297-280): "Có cây, có đá sẵn sàng, Có hiên Lãm Thuý nét vàng chưa phai".
2. Cây đàn nạm ngọc
Dịch nghĩa
Cao hứng làm ngay
Phía đông đỉnh Lãm Thúy trúc mọc đầy rừng
Cửa rào tre ban ngày quét sạch bong
Mưa tạnh, sắc núi xanh làm trong trẻo mắt nhìn thơ mộng
Lụt rút rồi, ánh sáng trên sông tẩy sạch lòng tục
Chim kêu ngoài cửa biết là có khách
Lá rụng bên sân báo mùa thu đã muộn
Bên cửa sổ ban trưa tỉnh dậy rồi không ngũ được nữa
Dựa ghế đốt trầm đánh đàn ngọc.
Dịch thơ
Đông đình Lãm Thúy trúc đầy rừng
Cổng ngõ rào tre quét sạch bong
Mưa tạnh núi xanh thơ mắt ngắm
Lụt vơi sông đục tẩy dòng trong
Chim kêu ngoài cửa hay người đến
Lá rụng bên song tỉnh giấc mòng
Thức dậy ban trưa không ngủ lại
Đốt trầm dựa ghế gảy vài cung.
                    Đỗ Đình Tuân dịch

Bài 8
晚興
Vãn hứng
窮巷幽居苦寂寥,
Cùng hạng u cư khổ tịch liêu,
烏巾竹杖晚逍遙。
Ô cân trúc trượng vãn tiêu diêu (1).
荒村日落霞棲樹,
Hoang thôn (2) nhật lạc, hà thê thụ. 
野徑人稀水沒橋。
Dã kính nhân hi, thuỷ một kiều.
今古無窮江漠漠,
Kim cổ vô cùng giang mạc mạc (3),
英雄有恨葉蕭蕭。
Anh hùng hữu hận diệp tiêu tiêu (4)
歸來獨憑欄杆坐,
Quy lai độc bẵng (5) lan can toạ,
一片冰蟾掛碧霄。
Nhất phiến băng thiềm (6) quải bích tiêu.
                                 阮廌
                           Nguyễn Trãi
Ghi chú
1. Thong thả đi đây đi đó, sống một cách ung dung tự tại, không bị bó buộc.
2. Bản Đào Duy Anh ghi là "thôn hoang", nhưng "hoang thôn" thì đối chuẩn hơn.
3. Mây mù, mây bủa mờ mịt; tả dòng sông phía xa có mây mù làm cho mờ mịt đi.
4. Gió thổi vù vù; tả cảnh gió thổi vào hàng cây nghe vù vù.
5. Chữ 憑() đã được Phan Võ, Lê Thước, Đào Phương Bình phiên là "vựng"; Đào Duy Anh phiên là "vững"; nhóm biên soạn Thơ văn Nguyễn Trãi phiên là "bứng"; theo Từ Hải và Từ Nguyên chữ này được phiên thiết là "bì dăng" thì phải đọc là "bằng" hoặc "bẵng". Thiều Chửu cũng đọc hai âm là "bằng" và "bẵng" và giảng là tựa ghế.
6. (băng: giá, lạnh; thiềm: con thiềm thừ, con cóc lớn) chỉ mặt trăng vì truyền thuyết cho rằng trên mặt trăng có con cóc lớn.
Dịch nghĩa
Hứng buổi chiều
Trong ngõ cùng, ở nơi vắng vẻ, buồn nỗi quạnh hiu,
Khăn đen, gậy trúc đi dạo chơi buổi chiều.
Nơi thôn vắng, mặt trời xế, ráng đậu trên cây,
Con đường ngoài nội ít người qua lại, nước ngập cầu.
Xưa nay thời gian không cùng như sông chảy xuôi mờ mịt,
Anh hùng mang hận như tiếng gió thổi cây lá nghe vu vu.
Trở về một mình ngồi tựa lan can,
Một mảnh trăng sáng lạnh như băng treo trên nền trời biếc.
Dịch thơ
Ngõ cùng vắng vẻ nỗi quạnh hiu
Gậy trúc khăn đen dạo cảnh chiều
Xóm vắng trời tà cây cõng khói
Đường xa người ít nước lên kiều
Thời gian vô tận sông mờ mịt
Ôm hận anh hùng lá gió veo
Trở lại mỗi mình ngồi cạnh giậu
Một vừng trăng ngọc đã cao treo.
                 Đỗ Đình Tuân dịch

Bài 9
漫成
Mạn thành (II)
青年芳譽靄儒林,
Thanh niên phương dự ái nho lâm,
老去虛名付夢尋。
Lão khứ hư danh phó mộng tầm. 
杖策何從歸漢室,
Trượng sách (1) hà tòng quy Hán thất, 
抱琴空自操南音。
 Bão cầm không tự tháo Nam âm (2).
仲尼三月無君念,
Trọng Ni tam nguyệt vô quân niệm,
孟子孤臣慮患心。
Mạnh Tử cô thần lự hoạn tâm. 
但喜弓箕存舊業,
Đãn hỉ cung cơ (3) tồn cựu nghiệp,
傳家何用滿贏金
Truyền gia hà dụng mãn doanh câm.
                                阮廌
                           Nguyễn Trãi
Ghi chú
1. Chống roi ngựa. Đặng Vũ đời Đông hán (Trung Quốc) là bạn của Lưu Tú (Hán Quang Vũ), khi nghe bạn thu được Hà Bắc bèn chống roi ngựa đến mừng và phò tá rất trung thành.
2. Âm điệu phương Nam. Chung Nghi người nước Sở vốn biết âm nhạc, bị bắt sang nước Tần. Khi được vua Tần hạ lệnh cho đánh đàn, ông ôm đàn gảy ngay một điệu phương Nam, tỏ ý vẫn nhớ tổ quốc là nước Sở.
3. Cái cung và cái nia. Ý nói con nối nghiệp cha mà giỏi hơn cha, như con thợ uốn cung mà còn uốn cả vành nia và đan nia.
Dịch nghĩa
Tản mạn (II)
Thuở thanh xuân từng được tiếng thơm trong rừng nho học
Đến lúc già chỉ biết tìm danh hão trong mộng
Do đâu (có người) chống roi ngựa đi theo phục vụ nhà Hán?
Ôm đàn chỉ gãy khúc nhạc Nam âm
Trọng Ni buồn vì ba tháng không có vua
Mạnh Tử lo lắng cho cảnh cô thần (lòng lâm cảnh hoạn nạn)
Mừng được sự nghiệp cung cơ cũ còn lại
Cần gì nhiều vàng bạc để lưu lại cho con cháu?
Dịch thơ
Danh thơm tuổi trẻ nức rừng nho
Già cả hư danh lắm kẻ mơ
Roi ngựa chống tìm theo Hán đế
Ôm đàn chỉ gảy khúc nam xưa
Trọng Ni ba tháng buồn không chúa
Mạnh Tử từng lo gặp thế cô
Mừng được cung cơ còn nghiệp cũ
Cần gì châu báu để con thơ.
                   Đỗ Đình Tuân dịch
Bài 10
次韻黃門侍郎阮菊坡賀新居成  
Thứ vận Hoàng môn thị lang Nguyễn Cúc Pha (1) hạ tân cư thành
弓餘僻地半榛荊,
Cung dư tịch địa bán trăn kinh,
喜得新詩當座銘。
Hỷ đắc tân thi đương toạ minh (2)
瓮秫屢傾謀婦酒,
Ung thuật lũ khuynh mưu phụ tửu,
囊書惟有草玄經。
Nang thư duy hữu thảo Huyền kinh (3)
蓬門倒履迎佳客,
Bồng môn đảo lý nghinh giai khách,
花塢移床近曲櫺。
Hoa ổ di sàng cận khúc linh.
笑我老來狂更甚,
Tiếu ngã lão lai cuồng cánh thậm,
旁人休怪次公醒。
Bàng nhân hưu quái (4) Thứ công (5) tinh.
                                 阮廌
                           Nguyễn Trãi
Ghi chú
1. Nguyễn Cúc Pha: hiệu của Nguyễn Mộng Tuân, danh sĩ đời Lê Thánh Tông, làm Thượng kinh xa Đô uý.
2. Ghi vào chỗ đang ngồi (để nhớ). Tích xưa, có người viết một bài cẩm nang đặt bên phải chỗ ngồi để thường xuyên xem mà sửa mình, gọi là toạ hữu minh. Nguyễn Trãi dùng ngữ đương toạ minh để tỏ lòng quý bài thơ của bạn.
3. Tức kinh Thái Huyền do Dương Hùng, đời nhà Hán (Trung Quốc) soạn theo Kinh Dịch.
4. Nguyễn Trãi Toàn Tập và Ức Trai Thi Tập ghi là khoái, thiết nghĩ không thích hợp.
5. Tức văn học gia Nguyên Kết đời Đường (Trung Quốc), tự là Thứ Sơn, đỗ tiến sĩ, làm quan nhưng tính tình phóng khoáng, có khi ngông cuồng. Tác giả tự gọi mình là Thứ Công ngụ ý ví mình với nhân vật ấy.
Dịch nghĩa
Hoạ vần bài thơ của Hoàng môn thị lang Nguyễn Cúc Pha mừng nhà mới
Chỗ đất vắng hơn một công, phân nửa rậm rạp gai
Mừng được bài thơ mới nên chép vào chỗ ngồi (để nhớ)
Hũ gạo thường dốc nghiêng, nghĩ chuyện nấu rượu với vợ
Túi sách chỉ có chép Thái Huyền kinh thôi
Mang ngược dép vội ra cửa bồng đón khách quý
Dời giường gần chỗ gốc giàn hoa
Tự cười ta về già càng điên lắm
(Nhưng) người láng giềng chớ lạ rằng Thứ Công vẫn tỉnh đây.
Dịch thơ   
Độ hơn công đất nửa phần gai
Mừng được bài thơ chép chỗ ngồi
Hũ gạo dốc nghiêng rượu vợ nấu
Sách chuyên dành chép Huyền kinh thôi
Vội ra đón khách dép đi ngược
Giường chuyển gần giàn hoa nở tươi
Tự giễu về già gàn dở lắm
Thứ công ai lạ tính ta rồi.
                      Đỗ Đình Tuân dịch

5/6/2012
Đỗ Đình Tuân











Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

ĐẾM TIỀN

Ông ngồi giương kính đếm tiền Đồng tiền mỏng thế mà liền với xương Tiền này là khoản tiền lương Là tiền năm tháng chiến trường cho ta ...