Thứ Ba, 19 tháng 6, 2012

Dịch thơ cổ: Huyền Quang 2


Bài 6
菊花其二
Cúc hoa kỳ nhị
大江無夢浣枯腸,
Đại giang vô mộng hoán khô tràng,
百詠梅花讓好粧。
Bách vịnh mai hoa nhượng hảo trang.
老去愁秋吟未穩,
Lão khứ sầu thu ngâm vị ổn,
詩瓢實為菊花忙。
Thi biều thực vị cúc hoa mang.
                             玄光禪師
                     Huyền Quang thiền sư
Dịch nghĩa
Hoa cúc kỳ 2
Không mơ lấy nước sông lớn rửa tấc lòng khô héo,
Hoa mai từng được trăm bài thơ vịnh kia phải nhường vẻ đẹp
Già rồi lại buồn vì thu, chưa làm thơ được,
Nhưng túi thơ bầu rượu thật vì hoa cúc mà bận rộn.
Dịch thơ
Không mơ sông lớn rửa lòng khô
Vẻ đẹp hoa mai phải nhượng cho
Già đến buồn thu chưa vịnh được
Rượu bầu thơ túi rộn vì thơ.
                     Đỗ Đình Tuân dịch

Bài 7
菊花其三
Cúc hoa kỳ tam
忘身忘世已都忘,
Vong thân, vong thế, dĩ đô vong, 
坐久蕭然一榻涼。
Toạ cửu tiêu nhiên nhất tháp lương.
歲晚山中無歷日,
Tuế vãn sơn trung vô lịch nhật,
菊花開處即重陽。
Cúc hoa khai xứ tức trùng dương (1)
.                             玄光禪師
                     Huyền Quang thiền sư
Ghi chú
1.Tức ngày mồng 9 tháng 9 âm lịch. Theo thuyết âm dương đời cổ, thì số 9 thuộc về dương. Hôm ấy tháng và ngày đều nhằm số 9, nên gọi là "tiết trùng dương".
Dịch nghĩa
Hoa cúc kỳ 3
Quên mình, quên đời, đã quên tất cả,
Ngồi lâu trong hiu hắt, mát lạnh cả giường.
Cuối năm ở trong núi không có lịch,
Thấy cúc nở biết rằng đã tiết trùng dương.
Dịch thơ
Lặng trên giường mát ta ngồi
Quên mình, quên hết sự đời bấy nay
Cuối năm ngày tháng nào hay
Nhìn hoa cúc nở biết ngày trùng dương.
                         Đỗ Đình Tuân dịch
Bài 8
菊花其四
Cúc hoa kỳ tứ
年年和露向秋開,
Niên niên hoà lộ hướng thu khai, 
月淡風光愜寸懷。
Nguyệt đạm phong quang thiếp thốn hoài. 
堪笑不明花妙處,
Kham tiếu bất minh hoa diệu xứ,
滿頭隨到插歸來。
Mãn đầu tuỳ đáo sáp quy lai.
                              
玄光禪師
                     Huyền Quang thiền sư
Dịch nghĩa
Hoa cúc kỳ 4
Hàng năm hoa nở vào thu cùng với sương móc.
Trăng thanh trời quang đãng, thỏa thích tấc lòng
Ðáng cười ai không rõ sự huyền diệu của hoa,
Bất cứ tới đâu (thấy hoa) cắm đầy đầu mang về.
Dịch thơ
Sương móc vào thu hoa nở mau
Trăng thanh gió nhẹ thỏa lòng nhau
Cười ai không rõ hoa huyền diệu
Cứ ngắt hoa đem dắt kín đầu.
        
      Đỗ Đình Tuân dịch
Bài 9
菊花其五
Cúc hoa kỳ ngũ
花在中庭人在樓,
Hoa tại trung đình nhân tại lâu,
焚香獨坐似忘憂。
Phần hương độc toạ tự vong ưu.
主人與物渾無競,
Chủ nhân dữ vật hồn vô cạnh,
花向群方出一頭。
Hoa hướng quần phương xuất nhất đầu.
                              
玄光禪師
                     Huyền Quang thiền sư
Dịch nghĩa
Hoa cúc kỳ 5
Hoa ở dưới sân, người trên lầu,
Một mình thắp hương ngồi tự nhiên quên hết phiền muộn.
Người với hoa hồn nhiên không tranh cạnh,
Trong các loài hoa thì cúc trội hơn một bậc.
Dịch thơ
Hoa ở dưới sân người ở lầu
Thắp hương độc tọa sạch lo âu
Hồn nhiên hoa chẳng ganh người vậy
Trong các loài hoa cúc đứng đầu.
                   
Đỗ Đình Tuân dịch
Bài 10
菊花其六
Cúc hoa kỳ lục
春來黃白各芳菲,
Xuân lai hoàng bạch các phương phi, 
愛艷憐香亦似時。
Ái diễm liên hương diệc tự thì. 
遍界繁華全墜地,
Biến giới phồn hoa toàn truỵ địa,
後彫顏色屬東籬。
Hậu điêu nhan sắc thuộc đông ly (1)
Ghi chú
1.
Thơ Đào Tiềm: Thái cúc đông ly hạ (Hái hoa cúc ở giậu phía đông). Đào Tiềm là người rất thích trồng cúc.
Dịch nghĩa
Hoa cúc kỳ 6
Xuân đến hoa vàng hoa trắng đều ngát thơm,
Đúng thì, vẻ đẹp đáng yêu, hương thơm đáng chuộng đều giống nhau.
Nhưng khi các loài hoa tươi tốt khắp nơi đều đã tàn rụng,
Thì nhan sắc phai nhạt sau cùng là bông hoa ở giậu phía đông.
Dịch thơ
Xuân đến trắng vàng đều ngát hương
Đang thì hương sắc thảy tương đương
Nhưng khi loài khác mau tàn rụng
Phai nhạt sau cùng hoa giậu đông.
                  
Đỗ Đình Tuân dịch

20/6/2012
Đỗ Đình Tuân


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

ĐẾM TIỀN

Ông ngồi giương kính đếm tiền Đồng tiền mỏng thế mà liền với xương Tiền này là khoản tiền lương Là tiền năm tháng chiến trường cho ta ...