Thứ Tư, 6 tháng 6, 2012

Dịch thơ cổ: Nguyễn Trãi 18


Bài 11
途中寄洮江何刺史程僉憲 
Đồ trung ký Thao giang Hà Thứ sử Trình Thiêm Hiến
洮江一別意悠悠,
Thao Giang (1) nhất biệt ý du du,
杯酒論文憶舊遊。
Bôi tửu luận văn ức cựu du.
東岸梅花晴映纜,
Đông Ngạn mai hoa tình ánh lãm,
平灘月色遠隨舟。
Bình Than nguyệt sắc viễn tuỳ châu.
程公世上無雙士,
Trình Công thế thượng vô song sĩ, 
何老朝中第一流。
Hà Lão triều trung đệ nhất lưu. 
鈴閣想應清話處,
Linh các (2) tưởng ưng thanh thoại xứ, 
天涯肯念故人
Thiên nhai khẳng niệm cố nhân phù.
                                 阮廌
                           Nguyễn Trãi
Ghi chú
1. Sông Thao ở đất Phú Thọ cùng sông Lô và sông Đà gặp nhau tại ngã ba gọi là Tam Giang. Tác giả dùng tên con sông để chỉ nơi Thứ sử họ Hà (cấp Tỉnh trưởng) và Thiêm Hiến họ Trình (cấp phó Tỉnh trưởng) cai trị.
2. (cái gác chuông) Chỉ quân đình của các tướng soái. Đây nói về quan văn, chỉ phong thái nhàn nhã.
Dọc đường gửi thứ sử đất Thao Giang là Trình Thiêm Hiến
Sau khi từ biệt sông Thao lòng ta bồi hồi
Chén rượu câu văn luận bàn gợi nhớ lại chỗ đã đến chơi xưa
Bên bờ phía đông trời tạnh ánh sáng quyện vào hoa mai
Trên bãi sông ánh trăng đã đi xa theo thuyền
Trình Công là kẻ sĩ có một không hai trên đời
Trong triều Hà Lão là người bậc nhất
Nghĩ rằng Linh các đúng là nơi đời sống thanh nhàn
Có nhớ đến cố nhân ở chân trời chăng ?
Dịch thơ
Sông Thao từ biệt ngẩn ngơ
Thú vui chén rượu câu thơ đậm đà
Bờ đông nắng tráng mai hoa
Bên sông trăng sáng rời xa mạn thuyền
Trình công kẻ sĩ bề trên
Trong triều Hà lão cũng tên nhất hàng
Gác linh là chốn thanh nhàn
Chân trời góc biển bạn vàng nhớ chăng ?
                       Đỗ Đình Tuân dịch
Bài 12
秋月偶成
Thu nguyệt ngẫu thành
幽齋睡起獨沈吟,
U trai thuỵ khởi độc trầm ngâm, 
案上香消凈客心。
Án thượng hương tiêu tịnh khách tâm.
靜裏乾坤驚萬變,
Tĩnh lý càn khôn kinh vạn biến,
閑中日月値千金。
Nhàn trung nhật nguyệt trị thiên kim. 
儒風冷淡時情薄,
Nho phong lãnh đạm thời tình bạc,
聖域優游道味深。
Thánh vực ưu du đạo vị thâm. 
讀罷群書無箇事,
Độc bãi quần thư vô cá sự, 
老梅窗畔理瑤琴
Lão mai song bạn lý dao cầm.
                                 阮廌
                           Nguyễn Trãi
Dịch nghĩa
Đêm trăng thu ngẫu nhiên làm
Phòng vắng ngủ dậy, một mình trầm ngâm,
Hương trên án cháy hết lắng sạch lòng khách.
Trong cõi tĩnh lặng kinh sợ nỗi biến hoá muôn ngàn của trời đất,
Ở cảnh nhàn tháng ngày đáng giá ngàn vàng.
Thói nhà nho lạnh nhạt, tình đời bạc bẽo,
Cõi thánh thong dong mùi đạo thâm sâu.
Đọc xong các sách không bận việc gì,
Bên cội mai già cạnh song cửa gảy dao cầm.
Dịch thơ
Một mình phòng vắng dậy trầm ngâm
Trên án hương tàn sạch khách tâm
Trong cõi lặng im kinh biến động
Ở nhàn ngày tháng đáng vàng trăm
Nhà nho lạnh nhạt đời hay bạc
Cõi thánh thong dong đạo lý thâm
Các sách đọc xong không bận việc
Mai già bên cửa gảy dao cầm.
                     Đỗ Đình Tuân dịch

Bài 13
夏日漫成
Hạ nhật mạn thành (II)
雨過庭柯長綠陰,
Vũ quá đình kha trưởng lục âm,
蟬聲宮徵奏虞琴。
Thiền thanh cung chuỷ (1) tấu Ngu cầm (2)
窗前黃卷公媒睡,
Song tiền hoàng quyển  công môi thuỵ, 
戶外青山故索吟。
Hộ ngoại thanh sơn cố sách ngâm.
晝靜乾坤寬道思,
Trú tĩnh càn khôn khoan đạo tứ,
人間名利醒初心。
Nhân gian danh lợi tỉnh sơ tâm.
回頭三十年前事,
Hồi đầu tam thập niên tiền sự,
夢裡悠悠更莫尋。
Mộng lý du du cánh mạc tầm.
                                 阮廌
                           Nguyễn Trãi
Ghi chú
1. Hai âm trong ngũ âm (cung, thương, giốc, chủy, vũ) thuộc ngũ hành (kim, mộc, thủy, hỏa, thổ), theo thứ tự trên mỗi cung (âm) liên quan đến một chất trong vũ trụ. Âm nhạc Đông phương dựa theo thể ngũ cung này. Trong Truyện Kiều của Nguyễn Du có hai câu 31-32 như sau về tài nhạc thủ của Thúy Kiều: "Cung thương lầu bậc ngũ âm, Nghề riêng ăn đứt hồ cầm một trương".
2. Đàn của vua Thuấn (nhà Ngu). Theo truyền thuyết, vua Thuấn (Trung Quốc, 2255 - 2200 trước Tây lịch) gảy đàn hát bài "Nam phong" (gió nam). Do đấy về mùa hè, gió nam, người ta thường dùng điển này để chỉ tiếng ve kêu.
Dịch nghĩa
Tản mạn ngày hè (II)
Mưa tạnh, cành cây ngoài sân thêm sắc xanh
Tiếng ve ngâm như tấu nhạc vua Ngu Thuấn
Trước song cửa cuốn sách vàng ru giấc ngủ
Ngoài kia núi non xanh biếc giục ngâm thơ
Ngày lặng, trong trời đất gieo ý đạo
Người nhàn đã giác ngộ về lòng ham danh lợi buổi đầu
hồi tưởng lại công việc ba mươi năm về trước
Trong mộng mịt mù khó thể tìm lại được.
Dịch thơ
Mưa tạnh xanh thêm cây trước sân
Khúc đàn vua Thuấn tiếng ve ngân
Sách vàng cửa sổ gây buồn ngủ
Núi biếc ngoài kia đợi nối vần
Ngày lặng đất trời mang ý đạo
Người nhàn danh lợi bỏ ngoài thân
Quay đầu muốn nhớ bao việc trước
Mờ mịt trong mơ cũng khó lần.
                     Đỗ Đình Tuân dịch

Bài 14
仙遊寺
Tiên Du tự
短棹繫斜陽,
Đoản trạo hệ tà dương, 
匆匆謁上方。
 Thông thông yết thượng phương.
雲歸禪榻冷,
Vân quy Thiền sáp lãnh,
花落澗流香。
Hoa lạc giản lưu hương.
日暮猿聲急,
Nhật mộ viên thanh cấp,
山空竹影長。
Sơn không trúc ảnh trường.
箇中真有意,
Cá trung chân hữu ý, 
欲語忽還忘。
Dục ngữ hốt hoàn vương
                         阮廌
                    Nguyễn Trãi
Dịch nghĩa
Chùa Tiên Du
Mái chèo ngắn buộc trong bóng xế
Vội vàng lên chùa lễ Phật
Mây kéo về làm lạnh giường Thiền
Hoa rụng xuống khiến dòng suối thơm.
Chiều hôm tiếng vượn kêu rộn
Núi trống bóng trúc dài ra;
Trong cảnh ấy thật có ý
Ta muốn nói ra bỗng lại quên lời.
Dịch thơ
Chèo ngắn buộc bóng xế
Vội vàng lên lễ chùa
Mây về giường thiền lạnh
Hoa rụng suối thơm đưa
Chiều hôm tiếng vượn gấp
Núi vắng dài bóng tre
Cảnh ấy thật có ý
Muốn nói lời quên nghe.
        Đỗ Đình Tuân dịch

Bài 15
題抱腹岩
Đề Bão Phúc nham (1)
平明擱棹上岩頭,
Bình minh các trạo thướng nham đầu, 
乘興聊為玉局遊。
Thừa hứng liêu vi Ngọc Cục (2) du.
九轉丹成孤鶴去,
Cửu chuyển đơn thành cô hạc khứ (3)
三神股斷一鰲浮。
Tam thần (3) cổ đoạn nhất ngao phù.
石欄影附滄江月,
Thạch lan ảnh phụ thương giang nguyệt,
仙洞煙含碧樹秋。
Tiên động yên hàm bích thụ thu.
是處真堪容我隱,
Thị xứ chân kham dung ngã ẩn,
山中還有舊斿
Sơn trung hoàn hữu cựu du phù.
Ghi chú
1. Bão Phúc nham: núi Bão Phúc ở Đông Triều  gồm n hiều ngọn ở giữa lòng sông lớn, có động ở chân núi ăn ra đến dòng nước, ngoài có bãi cát, cây cối um tùm, có thờ thủy thần rất thiêng. Trong động có hang sâu, đốt đuốc đi không cùng được, đất toàn màu đỏ gạch.
2. Bàn cờ ngọc. Theo sách Hoàng Vũ Ký, tại đây Lão Tử đến cùng Trương Đạo Lăng để giảng kinh Nam Đẩu, có bàn cờ và giường ngọc dưới đất mọc lên, nhưng rồi lại thụt vào lòng đất hóa thành động sau khi Lão Tử đi. Vì thế nên có tên là Ngọc Cục, về sau Tô Đông Pha đặt là Ngọc Cục Quán. Nguyễn Trãi ví chỗ động Bảo Phúc như cảnh này bên Trung Quốc.
3. Nói về loại thuốc tiên. Theo truyền thuyết, các đạo sĩ luyện thuốc cùng với vàng, chín lần nấu mới thành thuốc trường sinh bất tử. Đạo sĩ luyện thuốc xong thì cưỡi hạc bỏ đi.
4. Ba hòn đảo trong biển Bột Hải. Chữ Ngao chỉ núi Bảo Phúc (với vẻ thần tiên của núi ấy, cũng như Ngao Sơn thường chỉ nơi tiên ở).
Dịch nghĩa
Đề núi Bão Phúc
Sáng sớm gác mái chèo lên đỉnh núi
Thừa hứng tham quan cảnh Ngọc Cục
Sau chín lần luyện thành linh đơn chim hạc đã đi mất
Ba núi thần bị đứt chân và một con ngao đã nổi lên ở đây
Lan can đá phản chiếu ánh trăng trên dòng sông xanh
Khói ở cửa động tiên nhuốm vẻ mùa thu trên cây lá
Chốn này quả đáng cho ta ở ẩn
Trong núi còn có bạn chơi cũ nào chăng?
Dịch thơ
Bình minh gác mái bên đèo
Thăm bàn cờ ngọc ta trèo lên non
Linh đơn thành hạc đâu còn
Con ngao đội núi ba hòn đứt chân
Sông xanh lấp lánh trăng ngân
Động tiên ngậm khói biếc cành cây thu
Chốn này quả đáng ẩn cư
Hỏi trong núi có bạn xưa chăng là ?
                      Đỗ Đình Tuân dịch

7/6/2012
Đỗ Đình Tuân

                                 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

ĐẾM TIỀN

Ông ngồi giương kính đếm tiền Đồng tiền mỏng thế mà liền với xương Tiền này là khoản tiền lương Là tiền năm tháng chiến trường cho ta ...