Bài
11
舟中
Chu trung
一葉扁舟湖海客,
Nhất
diệp biển chu hồ hải khách,
撐出葦行風搣搣。
撐出葦行風搣搣。
Xanh
xuất vi hành phong thích thích.
微茫四顧晚潮生,
微茫四顧晚潮生,
Vi
mang tứ cố vãn triều sinh,
江水連天一鷗白。
江水連天一鷗白。
Giang
thủy liên thiên nhất âu bạch
玄光禪師
Huyền Quang thiền sư
Dịch
nghĩa
Trong thuyền
Một
lá thuyền con, một khách hải hồ,
Chèo khỏi rặng lau, tiếng gió xào xạc.
Bốn bề mịt mù, con nước buổi chiều đương lên,
Một chim âu trắng giữa khoảng nước trời liền nhau.
Chèo khỏi rặng lau, tiếng gió xào xạc.
Bốn bề mịt mù, con nước buổi chiều đương lên,
Một chim âu trắng giữa khoảng nước trời liền nhau.
Dịch thơ
Một lá thuyền
con khách hải hồ
Rặng lau chèo khỏi gió vi vu
Bốn bề mù mịt triều đang dậy
Trời nước liền nhau âu trắng đua.
Đỗ Đình Tuân dịch
Bài 12
延祐寺
Diên Hựu tự (1)
上方秋夜一鐘闌,
Thượng
phương du dạ nhất chung lan,
月色如波楓樹丹。
月色如波楓樹丹。
Nguyệt sắc như ba phong thụ đan.
鴟吻倒眠方鏡冷,
鴟吻倒眠方鏡冷,
Si
vẫn (2) đảo miên phương kính lãnh,
塔光雙峙玉尖寒。
塔光雙峙玉尖寒。
Tháp
quang song trĩ ngọc tiêm hàn.
萬緣不擾城遮俗,
萬緣不擾城遮俗,
Vạn
duyên bất nhiễu thành già tục,
半點無憂眼放寬。
半點無憂眼放寬。
Bán
điểm vô ưu nhãn phóng khoan.
參透是非平等相,
參透是非平等相,
Tham
thấu thị phi bình đẳng tướng,
魔宮佛國好生觀。
魔宮佛國好生觀。
Ma cung Phật quốc hảo sinh quan.
玄光禪師
Huyền Quang thiền sư
Ghi chú
1Diên Hựu: tức chùa Một Cột, được vua
Lý Thái Tông cho dựng năm Kỷ Dậu (1049), nay vẫn còn ở Hà Nội sau nhiều lần
trùng tu.
2 Còn gọi là "si vĩ", là
hình những con chim, cú, hoặc rồng được khắc hoặc đắp nổi trên nóc các đình,
chùa. Trên nóc cùa Một Cột ngày nay có hình rồng..
Dịch nghĩa
Chùa Diên Hựu
Đêm thu, trên chùa một tiếng chuông đã
tàn,
Ánh trăng như sóng, cây phong lá đỏ.
Bóng "xi vẫn" nằm ngủ ngược dưới mặt hồ như tấm gương vuông lạnh giá,
Hai ngọn tháp đứng song song như ngón tay ngọc rét buốt.
Muôn vàn nhân duyên không vương vấn là bức thành che niềm tục,
Không lo lắng chút gì nên tầm mắt mở rộng.
Hiểu thấu ý nghĩa của thuyết phải trái đều như nhau,
Thì xem cung ma có khác gì nước Phật!
Ánh trăng như sóng, cây phong lá đỏ.
Bóng "xi vẫn" nằm ngủ ngược dưới mặt hồ như tấm gương vuông lạnh giá,
Hai ngọn tháp đứng song song như ngón tay ngọc rét buốt.
Muôn vàn nhân duyên không vương vấn là bức thành che niềm tục,
Không lo lắng chút gì nên tầm mắt mở rộng.
Hiểu thấu ý nghĩa của thuyết phải trái đều như nhau,
Thì xem cung ma có khác gì nước Phật!
Dịch thơ
Đêm thu chùa vắng chuông tàn
Cây phong lá đỏ trăng tràn sóng rơi
Đáy hồ « Xi vẫn » nằm ngơi
Tháp đôi như ngón tay người lạnh băng
Không lo tầm mắt mênh mang
Không duyên là bức thành ngăn tục niềm
Tỏ tường lý lẽ diệu huyền
Cung ma nước Phật đôi bên khác gì.
Đỗ Đình Tuân dịch
Bài 13
梅花
Mai hoa
欲向蒼蒼問所從,
Dục
hướng thương thương vấn sở tòng,
凜然孤峙雪山中。
凜然孤峙雪山中。
Lẫm
nhiên cô trĩ tuyết sơn trung.
折來不為遮青眼,
折來不為遮青眼,
Chiết
lai bất vị già thanh nhãn,
願借春思慰病翁。
願借春思慰病翁。
Nguyện
tá xuân tư uỷ bệnh ông.
玄光禪師
Huyền Quang thiền sư
Dịch
nghĩa
Hoa mai
Muốn
ngẩng nhìn trời xanh hỏi hoa mai từ đâu tới,
Lẫm liệt đứng sừng sững một mình trong núi tuyết.
Bẻ về không phải để che mắt những người tinh đời,
Chỉ muốn mượn tứ xuân an ủi ông già ốm yếu.
Lẫm liệt đứng sừng sững một mình trong núi tuyết.
Bẻ về không phải để che mắt những người tinh đời,
Chỉ muốn mượn tứ xuân an ủi ông già ốm yếu.
Dịch thơ
Muốn hỏi từ
đâu mai tới đây
Một mình giữa
tuyết đẹp xinh thay
Bẻ về đâu dấu
già tinh mắt
Mượn tứ
xuân vui lão ốm này.
Đỗ Đình Tuân dịch
Bài
14
午睡
Ngọ thuỵ
雨過溪山淨,
Vũ
quá khê sơn tịnh,
楓林一夢涼。
楓林一夢涼。
Phong
lâm nhất mộng lương.
反光塵世介,
反光塵世介,
Phản
quang trần thế giới,
開眼醉茫茫。
開眼醉茫茫。
Khai nhãn tuý mang mang.
玄光禪師
Huyền Quang thiền sư
Dịch nghĩa
Giấc ngủ trưa
Tạnh
mưa khe trong núi nước trong
Rừng phong mát mẽ sau giấc ngủ say (mộng).
Nhìn lại cõi trần này.
Khi bừng mắt tỉnh dậy thấy niềm say man mác.
Rừng phong mát mẽ sau giấc ngủ say (mộng).
Nhìn lại cõi trần này.
Khi bừng mắt tỉnh dậy thấy niềm say man mác.
Dịch thơ
Sau mưa khe núi sạch
Rừng phủ giấc
mộng vàng
Ngoái nhìn cõi
trần thế
Mắt mở lòng
mang mang.
Đỗ Đình Tuân dịch
Bài 15
因事題究蘭寺
Nhân sự đề Cứu Lan tự
德薄常慚繼祖燈,
Đức
bạc thường tàm kế tổ đăng,
空教寒拾起冤憎。
空教寒拾起冤憎。
Không
giao Hàn, Thập (1) khởi oan tăng.
爭如逐伴歸山去,
爭如逐伴歸山去,
Tranh
như trục bạn quy sơn khứ,
疊嶂重山萬萬層。
疊嶂重山萬萬層。
Điệp
chướng trùng san vạn vạn tằng.
玄光禪師
Huyền Quang thiền sư
Ghi chú
1.Hàn
tức Hàn Sơn, Thập tức Thập Đắc, hai vị sư ở thời Trinh Quán nhà Đường. Theo
"Truyện cao tăng" thì sư Phong Can ở chùa Quốc Thanh núi Thiên Thai
đi vân du gặp Lư Khâu Dận đi nhậm chức ở Thai Châu, hỏi ở Thai Châu có vị sư
nào đạo đức cao siêu không? Sư Phong Can trả lời: "có Hàn Sơn Văn Thù và
Thập Đắc Phổ Hiền, hình dáng như người nghèo lại như có chứng phong cuồng, hai
vị này ở chùa giữ việc bếp nước". Khi Lưu Khâu Dận đến châu lỵ, vào chùa
thấy hai vị sư này, liền sụp xuống lạy. Hai vị nói: "Phong Can rõ thật lắm
mồm", rồi cùng nhau chạy trốn, Lư Khâu Dận tìm kiếm di vật, thấy được lời
kệ của Thập Đắc và hai tập thơ của Hàn Sơn tử.
Dịch nghĩa
Nhân có việc đề ờ chùa Cứu Lan
Thường
thẹn mình đức mỏng mà được nối ngọn đèn Tổ,
Luống để cho Hàn Sơn và Thập Đắc phải sinh niềm oán giận.
Chi bằng theo bạn về núi,
Sống giữa muôn vạn tầng núi non trùng điệp.
Luống để cho Hàn Sơn và Thập Đắc phải sinh niềm oán giận.
Chi bằng theo bạn về núi,
Sống giữa muôn vạn tầng núi non trùng điệp.
Dịch thơ
Thẹn mình đức
mỏng nối đèn sư
Thập Đắc,
Hàn Sơn giận oán cho
Chi bằng
theo bạn vào khe suối
Sống giữa
muôn trùng núi nhấp nhô.
Đỗ Đình
Tuân dịch
21/6/2012
Đỗ Đình Tuân
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét