Chủ Nhật, 17 tháng 6, 2012

Dịch thơ cổ: Nguyễn Trãi 21


Bài 6
韶州文憲廟
Thiều Châu (1)Văn Hiến miếu
反狀當年辨羯兒,
Phản trạng đương niên biện Yết nhi (2),
至明先見若蓍龜。
Chí minh tiên kiến nhược thi quy. 
濟時儒術生平有,
Tế thì nho thuật sinh bình hữu,
諫主忠言死後知。
Gián chúa trung ngôn tử hậu tri.
萬古不磨金鑑錄,
Vạn cổ bất ma Kim giám lục (3)
千年猶享曲江祠。
Thiên niên do hưởng Khúc giang từ. 
高風追想渾如昨,
Cao phong truy tưởng hồn như tạc, 
手拂青苔認石碑。
Thủ phất thanh đài nhận thạch bi (3).
                                 阮廌
                           Nguyễn Trãi
Ghi chú
1.Thiều Châu: một châu quận thuộc Trung Quốc. Đây nói về Văn Hiến Trương Cửu Linh.
2. Tên gọi một chủng tộc man rợ (cũng như nói Hồ nhi, tức rợ Hồ, chỉ bọn Hung Nô). Tác giả đề cập An Lộc Sơn phản loạn đời vua Đường Huyền Tôn (Trung Quốc). Tể tướng Trương Cửu Linh, thuy hiệu là Văn Hiến, đề nghị vua giết An Lộc Sơn ngừa phản lọan nhưng vua không tin, về sau An Lộc Sơn làm phản thật sự. Văn Hiến miếu thờ vị tể tướng nói trên ở phía Nam huyện thành Khúc Giang. (An Lộc Sơn bị mệnh danh là rợ Phiên).
3. Cuốn "Thiên thu kim giám lục" do Trương Cửu Linh tặng Đường Huyền Tôn làm quà sinh nhật, nói về lẽ hưng vong của các chính thể chế độ qua các thời đại.
4. Nguyễn Trãi Toàn Tập ghi theo bản Dương Bá Cung là cổ bi, vì tự dạng gần giống như thạch, chữ này xét ra thích hợp hơn.
Dịch nghĩa
Miếu thờ Văn Hiến ở Thiều Châu
Kết tội phản trắc của bọn Yết nhi (chỉ An Lộc Sơn) năm xưa
Sáng suốt thấy trước như bói quẻ (cỏ thi, mai rùa)
Thuật của nhà nho giúp đời thường vốn có
Lời trung can gián chúa sau khi chết rồi mới nhận ra
Muôn thuở chẳng mòn tấm gương vàng được ghi lại
Nghìn năm hướng lên từ đường (miếu tổ) ở sông Khúc Giang
Phong độ cao quý nhớ lại hoàn toàn như mới hôm qua
Dùng tay phủi lớp bụi rêu để nhận ra bia đá
Dịch thơ
Năm xưa luận tội Yết Nhi
Cũng hay như bói cỏ thi mai rùa
Giúp đời có thuật nhà nho
Lời ngay Văn Hiến can vua còn truyền
Nghìn năm gương sáng trong nguyên
Khúc Giang muôn thuở tuổi tên phụng thờ
Nhớ người như mới hôm qua
Lấy tay phủi lớp rêu mờ trên bia.
                    Đỗ Đình Tuân dịch

12/6/2012
Đỗ Đình Tuân


Bài 7
過嶺
Quá lĩnh
前崗日落馬虺隤,
 Tiền cương nhật lạc mã hôi đồi,
行盡梅關不見梅。
Hành tận Mai quan bất kiến mai.
夾道千松撐漢立,
Giáp đạo thiên tùng xanh Hán (1) lập,
綠雲一路擘山開。
Duyên vân nhất lộ phách sơn khai.
長安日近聊舒目,
Trường An (2) nhật cận liêu thư mục, 
故國天遙重感懷。
Cố quốc thiên dao trọng cảm hoài.
唐相一從通此道,
Đường tướng (3) nhất tòng thông thử đạo,
不知今幾百年來
Bách tri kim kỷ bách niên lai.
                                阮廌
                           Nguyễn Trãi
Ghi chú
1. Sông ngân hán hay ngân hà (mệnh danh một chòm sao).
2. Kinh đô cũ của nhà Tây Hán (Trung Quốc) nay thuộc tỉnh Thiểm Tây. Về sau danh từ Trường An dùng để gọi kinh đô nhà vua.
3. Tức tướng nhà Đường Trương Cửu Linh, mở đường này trên đèo Đại Đô gọi là Mai Lĩnh (núi mai) vì có trồng nhiều mai (xem câu 2: mai quan, cửa ai có trồng mai). Đến đời Tống, Thái Đĩnh cho trồng tùng hai bên vệ đường đèo nên tác giả không thấy mai.
Dịch nghĩa
Qua đèo
Ở dốc núi phía trước mặt trời đã lặn, ngựa đã nhọc
Đi đến (cửa ải) Mai quan mà chẳng thấy có mai
Sát đường nghìn cây tùng (vươn lên) chống giải ngân hà
Gần cõi mây một con đường xẻ núi mà đi
Mặt trời đã xuống (kinh đô) Trường An, khiến tầm mắt tạm được thư thái
Xa bầu trời cố quốc lòng nặng cảm hoài khi tướng nhà Đường mở con đường này
Đến nay chẳng biết đã mấy trăm năm rồi.
Dịch thơ
Chiều tà ngựa đã mệt nhoài
Mai Quan đi hết thấy mai đâu nào
Nghìn cây thông chống trời cao
Dưới mây một lối sẻ đào núi qua
Trường An gần phía trời tà
Ngoái trông cố quốc lòng ta khôn cầm
Tướng Đường mở lối khai sơn
Chẳng hay đã được mất trăm năm rồi.
                       Đỗ Đình Tuân dịch

Bài 8
江西
Giang Tây
自古洪都稱勝地,
Tự cổ Hồng Đô xưng thắng địa,
今朝客裡暫相過。
Kim triêu khách lý tạm tương qua. 
煙收南浦晴光好,
Yên thu Nam Phố (2) tình quang hảo,
日落西山暮景佳。
Nhật lạc Tây Sơn (3) mộ cảnh gia (giai).
告訐成風憐俗薄,
Cáo kiết thành phong liên tục bạc,
詞章有學中科多。
Từ chương hữu học trúng khoa đa.
旌揚鐵柱今猶在,
Tinh Dương thiết trụ (4) kim do tại,
碑刻千年蘚已花。
Bi khắc thiên niên tiển dĩ hoa.
                                阮廌
                           Nguyễn Trãi
Ghi chú
1. Giang Tây: một tỉnh ở Trung Quốc, phía nam sông Trường Giang, nổi tiếng về khoáng sản, tỉnh lị là Nam Xương, cũng gọi là Hồng Đô. Giang Tây cũng nổi tiếng về đồ sứ.
2. Tên một bến thuyền phía nam huyện Nam Xương
3. Tên một dãy núi phía tây huyện này
4. Trụ sắt của Hứa Tinh Dương, một nhân vật đời nhà Tần, do ông dựng lên bên trong cửa Quảng Nhuận tại Nam Xương, tương truyền để trừ khử các loài rắn, thuồng luồng gieo họa.
Dịch nghĩa
Giang Tây
Từ xưa Hồng Đô nổi tiếng là thắng cảnh
Sáng hôm nay trên đường khách đi tạm ghé qua
Khói từ Nam Phố trời sáng tốt
Mặt trời xuống ở Tây Sơn cảnh chiều đẹp
Thói thưa gửi (kiện tụng, bươi móc) trở thành lệ khiến phong tục kém
Có học từ chương nên thi cử đỗ nhiều
Trụ sắt của (Hứa) Tinh Dương nay hãy còn
Bia khắc nghìn năm đã lốm đốm rêu.
Dịch thơ
Tự cổ Hồng Đô xưng thắng địa
Sáng nay dặm khách tạm đi qua
Khói về Nam Phố trời trong đẹp
Nhật xuống Tây Sơn đẹp cảnh tà
Kiện tụng đã thành phong tục xấu
Từ chương có học đỗ nhiều khoa
Tính Dương cột sắt nay còn đó
Bia khắc nghìn năm rêu đốm hoa.
                    Đỗ Đình Tuân dịch

Bài 9
采石懷古
Thái Thạch  (1) hoài cổ
采石曾聞李謫仙,
Thái Thạch tằng văn Lý trích tiên, 
騎鯨飛去已多年。
Kỵ kình phi khứ dĩ đa niên
此江若變為春酒,
Thử giang nhược biến vi xuân tửu,
只恐波心尚醉眠。
Chỉ khủng ba tâm thượng tuý miên.
                                阮廌
                           Nguyễn Trãi
 Ghi chú
1. Thái Thạch: một con sông tại tỉnh An Huy, Trung Quốc. Tương truyền nhà thơ Lý Bạch (Lý Thái Bạch) đi thuyền uống rượu say, cúi xuống sông định bắt lấy ánh trăng nên chết đuối tại sông này. Nơi đây có xây một cái đài gọi là Tróc Nguyệt Đài (đài bắt trăng). Lý Bạch tự cho mình là Hải thượng kỵ kình (khách cưỡi cá kình trên biển). Người đương thời bảo Lý Bạch là tiên bị đày xuống trần gian (Lý Trích Tiên). Nhà thơ Đỗ Phủ, cùng thời với Lý Bạch có câu: "Nhược dịch phùng Lý Bạch kỵ kình ngư, Đạo Phủ vấn tấn kim hà như" (Nếu gặp Lý Bạch cưỡi cá kình, Thì bảo giùm rằng Phủ đây hỏi Bạch nay ra sao?).
Nguyễn Tôn Quai, nhà thơ Việt Nam đời Hậu Lê, có câu thơ về Lý Bạch như sau: "Ẩm tàn giang quốc thiên ba nguyệt, Ngâm động tinh hà ngũ dạ thiên" (Uống hết bóng trăng trong nghìn sóng giữa sông, Ngâm lên cho chuyển động dòng sông Ngân hà suốt đêm).    
Dịch nghĩa
Nhớ xưa sông Thái Thạch
Về sông Thái Thạch từn gnghe chuyện trích tiên họ Lý
Cưỡi cá kình bay đi đã nhiều năm qua
Ví thử (nước) sông ấy biến thành rượu xuân
Ắt sẽ ngại ông còn mãi ngủ say dưới lòng sông!
Dịch thơ
Thái Thạch từng nghe Lý Trích Tiên
Cưỡi kình đi mất đã bao niên
Sông này nếu biến thành sông rượu
Lòng sóng ông còn mãi ngủ yên.
                     Đỗ Đình Tuân dịch

Bài 10
途中寄友
Đồ trung ký hữu
上國觀光萬里途,
Thượng quốc quan quang vạn lý đồ,
天涯屈指歲云租。
Thiên nhai khuất chỉ tuế vân tô. 
夢中水遠山還遠,
Mộng trung thuỷ viễn sơn hoàn viễn,
別後書無雁亦無。
Biệt hậu thư vô nhạn diệc vô.
客夜不眠千感集,
Khách dạ bất miên thiên cảm tập,
清時誰料寸中孤。
Thanh thì thuỳ liệu thốn trung cô.
南州舊識如相問,
Nam châu cựu thức như tương vấn,
報道今吾亦故吾。
Báo đạo kim ngô diệc cố ngô.
                                阮廌
                           Nguyễn Trãi
Dịch nghĩa
Trên đường gửi bạn 
Thượng quốc đi thăm, đường xa vạn dặm,
Bên trời đếm đốt ngón tay, đã đến năm rồi.
Trong mộng thấy nước xa non cũng xa,
Sau khi biệt, thư không có nhạn cũng không có.
Đêm đất khách không ngủ, nghìn mối cảm dồn dập,
Thời thanh bình ai ngờ tấc lòng trung phải mồ côi.
Ở Nam Châu người quen cũ có ai hỏi thăm,
Bảo cho rằng cái tôi nay vẫn là cái tôi cũ.
Dịch thơ
Thượng quốc qua thăm vạn dặm xa
Bên trời bấm đốt một năm qua
Nước non trong mộng vời xa thẳm
Ly biệt thư không nhạn chẳng mà
Đất khách trong đêm nghìn mối cảm
Thời bình ai biết tấm trung cô
Nam Châu người cũ ai thăm hỏi
Xin nói giùm cho ta vẫn ta.
                      Đỗ Đình Tuân dịch

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

ĐẾM TIỀN

Ông ngồi giương kính đếm tiền Đồng tiền mỏng thế mà liền với xương Tiền này là khoản tiền lương Là tiền năm tháng chiến trường cho ta ...