LÀM
TRONG THỜI KỲ ĐOÁN LÀ SANG TRUNG QUỐC (15 BÀI)
Bài
1
過海
Quá hải
撥盡閑愁獨倚蓬,
Bát
tận nhàn sầu độc ỷ bồng,
水光渺渺思何窮。
水光渺渺思何窮。
Thuỷ
quang diểu diểu tứ hà cùng.
松林地斥疆南北,
松林地斥疆南北,
Tùng
Lâm (1) địa xích cương Nam Bắc,
龍尾山橫限要衝。
龍尾山橫限要衝。
Long
Vĩ (2) sơn hoành hạn yếu xung.
義氣掃空千障雾,
義氣掃空千障雾,
Nghĩa
khí tảo không thiên chướng vụ,
壯懷呼起半帆風。
壯懷呼起半帆風。
Tráng
hoài hô khởi bán phàm phong.
扁舟羨我朝天客,
扁舟羨我朝天客,
Biển
chu tiển ngã triều thiên khách (3),
直駕鯨鯢跨海東。
直駕鯨鯢跨海東。
Trực
giá kình nghê khóa hải Đông.
阮廌
Nguyễn Trãi
Nguyễn Trãi
Ghi chú
1. Theo Đại Nam Nhất Thống Chí, tại châu Vĩnh Yên có trang Tùng Kính, trước thuộc nước ta, sau
nhà Mạc hiến cho Trung Quốc. Có nghi vấn Tùng Lâm có thể là ở đấy.
2. Núi Bạch Long Vĩ tại châu Vạn Ninh, tỉnh Quảng Yên , cũng
gọi là bán đảo vì dãy núi đi từ lục địa ra biển về hướng đảo Hải Nam của Trung
Quốc; có lẽ được mệnh danh theo địa thế giống như đuôi rồng. Xưa thuyền bè qua
đây thường bị sóng gió.
3. Đây cũng là một điểm nghi vấn vì tiểu sử tác giả không thấy
đề cập việc công du sang Trung Quốc.
Dịch nghĩa
Qua biển
Gác
bên mọi sầu muộn, một mình ta tựa mạn thuyền
Ánh nước mênh mông khó tả sao cho hết ý
Rừng tùng mở ra ranh giới chia Nam Bắc
Núi Long Vĩ chặn ngay chỗ hiểm yếu
Lòng nghĩa khí quét sạch mây mù
Chí anh hùng gọi gió thổi căng nửa cánh buồm
Thuyền con mừng ta làm khách đi chầu Thiên khuyết (Triều đình Trung Quốc)
Cưỡi cá kình vượt biển Đông.
Dịch thơ
Ánh nước mênh mông khó tả sao cho hết ý
Rừng tùng mở ra ranh giới chia Nam Bắc
Núi Long Vĩ chặn ngay chỗ hiểm yếu
Lòng nghĩa khí quét sạch mây mù
Chí anh hùng gọi gió thổi căng nửa cánh buồm
Thuyền con mừng ta làm khách đi chầu Thiên khuyết (Triều đình Trung Quốc)
Cưỡi cá kình vượt biển Đông.
Dịch thơ
Gác hết sầu
bi dựa thuyền không
Mênh mông
sóng nước ý khôn cùng
Rừng thông
mở lối chia nam bắc
Long Vĩ nằm
ngang chặn yếu xung
Nghĩa khí xua tan nghìn chướng khí
Anh hùng gió dậy nửa buồm căng
Thuyền con mừng kẻ chầu thiên khách
Cưỡi cá kình nghê vượt biển đông.
Đỗ Đình Tuân dịch
Bài 2
潯州
Tầm Châu
潯州城下鼓鼙聲,
Tầm
Châu (1) thành hạ cổ bề thanh,
客路還淹數月程。
客路還淹數月程。
Khách
lộ hoàn yêm sổ nguyệt trình.
溪洞有氓山八萬,
溪洞有氓山八萬,
Khê
động hữu manh sơn bát vạn (2),
成樓吹角月三更。
成樓吹角月三更。
Thú
lâu xuy giốc nguyệt tam canh.
岸篁瑟瑟悲風起,
岸篁瑟瑟悲風起,
Ngạn
hoàng sắt sắt bi phong khởi,
江水悠悠旅夢清。
江水悠悠旅夢清。
Giang
thuỷ du du lữ mộng thanh.
老我世途艱險熟,
老我世途艱險熟,
Lão
ngã thế đồ gian (3) hiểm thục,
中宵不寐獨傷情。
中宵不寐獨傷情。
Trung
tiêu bất mị độc thương tình.
阮廌
Nguyễn Trãi
Nguyễn Trãi
Ghi chú
1.
Một châu quận ở tỉnh Quảng Tây (Trung Quốc) nay là huyện Quế Bình. Xưa có lần lấy
tên con sông Tầm Giang đặt cho quận, gọi là quận Tầm Giang.
2.
heo Nguyễn Trãi Toàn Tập có ngọn núi tên là Bát Vạn ở Huệ Châu, gần Tầm Châu,
tác giả mượn tên núi ấy chăng? Trong nghi vấn chúng tôi tạm xem "bát vạn"
là dân số.
3.
Các bản "Nguyễn Trãi toàn tập" và "Ức Trai tập" đều ghi sai
là nan, tự dạng gần giống chữ gian.
Dịch
nghĩa
Quận Tầm Châu
Dưới
thành Tầm Châu vang tiếng trống
Hành trình của khách phải dừng lại ở đây mấy tháng
Trong khe động có dân miền núi ở hàng vạn (tám vạn)
Trên vọng gác vang tiếng tù và
Hành trình của khách phải dừng lại ở đây mấy tháng
Trong khe động có dân miền núi ở hàng vạn (tám vạn)
Trên vọng gác vang tiếng tù và
Bờ
tre gió thổi vi vu nỗi buồn man mác
Khách lữ hành mơ màng trên nước sông mênh mông
Ta đã già, đường đời gian khó đã thấm nhuần
Giữa đêm không ngủ, một mình riêng thương xót.
Khách lữ hành mơ màng trên nước sông mênh mông
Ta đã già, đường đời gian khó đã thấm nhuần
Giữa đêm không ngủ, một mình riêng thương xót.
Dịch thơ
Tầm Châu thành hạ trống vang lừng
Đường khách qua đây mấy tháng dừng
Khe núi có dân chừng tám vạn
Tù và vọng gác suốt đêm vang
Bờ tre gió thổi buồn man mác
Sông nước mênh mông giấc nhẹ nhàng
Gian hiểm đường đời ta đã trải
Nằm đêm không ngủ nghĩ miên man.
Đỗ Đình Tuân dịch
Bài 3
平南夜泊
Bình Nam
dạ bạc
片帆高颭晚風輕,
Phiến
phàm cao chiếm (1) vãn phong khinh,
暮宿平南古縣城。
暮宿平南古縣城。
Mộ
túc Bình Nam
(2) cổ huyện thành.
燈影照人和月影,
燈影照人和月影,
Đăng
ảnh chiếu nhân hoà nguyệt ảnh,
樹聲敲夢併灘聲。
樹聲敲夢併灘聲。
Thụ
thanh xao mộng tính than thanh.
湖山有約違初志,
湖山有約違初志,
Hồ
sơn hữu ước vi sơ chí,
歲月如流漫此生。
歲月如流漫此生。
Tuế
nguyệt như lưu mạn thử sinh.
夜半戍樓吹畫角,
夜半戍樓吹畫角,
Dạ
bán thú lâu xuy hoạ giốc,
客中悽愴不勝情
客中悽愴不勝情
Khách
trung thê sảng bất thăng tình.
阮廌
Nguyễn Trãi
Nguyễn Trãi
Ghi chú
1. Có một
phiên âm khác là triển
2.
Một huyện ngày xưa thuộc phủ Tầm Châu trên sông Tầm Giang (Quảng Tây, Trung Quốc).
Dịch
nghĩa
Đêm đậu thuyền ở Bình Nam
Cánh
buồm giương phập phồng trong gió chiều thổi nhẹ
Buổi tối tá túc ở huyện thành cổ Bình Nam
Ánh đèn hòa cùng ánh trăng chiếu vào người
Tiếng cây cùng với tiếng thác nước xua giấc mộng
Chí nguyện trước với núi sông giờ đã bị vi phạm
Năm tháng như trôi qua cuộc đời uổng phí
Nửa đêm tù và thổi trên lầu canh
Trong lòng khách thương xót khôn xiết.
Buổi tối tá túc ở huyện thành cổ Bình Nam
Ánh đèn hòa cùng ánh trăng chiếu vào người
Tiếng cây cùng với tiếng thác nước xua giấc mộng
Chí nguyện trước với núi sông giờ đã bị vi phạm
Năm tháng như trôi qua cuộc đời uổng phí
Nửa đêm tù và thổi trên lầu canh
Trong lòng khách thương xót khôn xiết.
Dịch thơ
Gió chiều thổi nhẹ mảnh buồm căng
Tối trọ Bình Nam
cổ huyện đường
Gió thổi thác reo xua giấc mộng
Ánh đèn soi mặt rọi cùng trăng
Núi sông ước nguyện sao vi phậm
Năm tháng trôi qua uổng quá chừng
Tiếng rúc tù và trên vọng gác
Nửa đêm lòng khách xót khôn cùng.
Đỗ Đình Tuân dịch
Bài 4
梧州
Ngô Châu (1)
路入青梧景更嘉,
Lộ
nhập Thanh Ngô cảnh cánh gia,
岸邊陽柳映人家。
岸邊陽柳映人家。
Ngạn
biên dương liễu ánh nhân gia.
九疑積翠峰如玉,
九疑積翠峰如玉,
Cửu
Nghi (2) tích thuý phong như ngọc,
二廣分流水若叉。
二廣分流水若叉。
Nhị
Quảng phân lưu thuỷ nhược xoa.
琳觀空聞飛白鶴,
琳觀空聞飛白鶴,
Lâm
Quán (4) không văn phi bạch hạc,
仙人不見袖青蛇。
仙人不見袖青蛇。
Tiên
nhân (5) bất kiến tụ thanh xà.
火山冰井真奇事,
火山冰井真奇事,
Hoả
sơn băng tỉnh chân kỳ sự,
舊俗相傳恐亦差。
舊俗相傳恐亦差。
Cựu
tục tương truyền khủng diệc soa (6).
阮廌
Nguyễn Trãi
Nguyễn Trãi
Ghi chú
1. Ngô Châu: một châu quận thuộc tỉnh Quảng Tây (Trung Quốc)
nay gọi là Thương Ngô hoặc Thanh Ngô.
3. Dãy núi gồm chín ngọn tại huyện Ninh Viễn, tỉnh Hồ Nam (Trung Quốc).
4. Quán Ngọc) Tức đền Bạch Hạc hoặc lầu Bạch Hạc (Bạch Hạc
quán, Bạch Hạc lâu) tại thành Ngô Châu (quán thường chỉ đền thờ của Lão giáo).
5.Một loại danh thảo bốn mùa đều xanh tốt.
6. Một âm của chữ sai. Có bản
chép là sa (?)
Dịch nghĩa
Quận Ngô Châu
Đường
đến Thanh Ngô (Ngô Châu) cảnh lại càng đẹp
Dương liễu bên bờ rợp bóng nhà dân
Núi Cửu Nghi màu biếc nom như ngọc
Miền Lưỡng Quảng (Quảng Đông, Quảng Tây) dòng nước chia như rẽ đôi
Đền Ngọc (Bạch hạc quán) thấy nói có hạc trắng bay
Trong (bụi) cây tiên nhân chẳng thấy có rắn xanh tụ tập
Núi lửa và giếng băng quả là chuyện lạ
Tục xưa truyền lại e có sai chăng ?
Dương liễu bên bờ rợp bóng nhà dân
Núi Cửu Nghi màu biếc nom như ngọc
Miền Lưỡng Quảng (Quảng Đông, Quảng Tây) dòng nước chia như rẽ đôi
Đền Ngọc (Bạch hạc quán) thấy nói có hạc trắng bay
Trong (bụi) cây tiên nhân chẳng thấy có rắn xanh tụ tập
Núi lửa và giếng băng quả là chuyện lạ
Tục xưa truyền lại e có sai chăng ?
Dịch thơ
Đường tới Thanh Ngô cảnh đẹp ra
Hàng cây dương liễu mọc ven nhà
Cửu Nghi núi biếc nom như ngọc
Nhị Quảng chia dòng nước ngã ba
Quán ngọc từng nghe bay hạc trắng
Tiên nhân cây chẳng thấy thanh xà
Núi lửa giếng băng toàn chuyện lạ
Tục xưa truyền lạiu chẳng sai ngoa.
Đỗ Đình Tuân dịch
Bài 5
遊南華寺
Du Nam Hoa tự
神錫飛來幾百春,
Thần tích (2) phi lai kỷ bách xuân,
寶林香火契前因。
Bảo
Lâm hương hoả khế tiền nhân.
降龍伏虎機何妙,
降龍伏虎機何妙,
Hàng
long phục hổ cơ hà diệu,
無樹非臺語若新。
無樹非臺語若新。
Vô
thụ phi đài (3) ngữ nhược tân.
殿側起樓藏佛缽,
殿側起樓藏佛缽,
Ðiện
trắc khởi lâu tàng Phật bát,
龕中遺跡蛻真身。
龕中遺跡蛻真身。
Kham
(4) trung di tích thuế chân thân.
門前一派漕溪水,
門前一派漕溪水,
Môn
tiền nhất phái Tào Khê (5) thuỷ,
洗盡人間劫劫塵。
洗盡人間劫劫塵。
Tẩy
tận nhân gian kiếp kiếp trần.
阮廌
Nguyễn Trãi
Nguyễn Trãi
Ghi chú
1.
Nam
Hoa: một ngôi chùa lớn tại huyện Khúc Giang, tỉnh Quảng Đông, Trung Quốc.
Nguyên mang tên chùa Bảo Lâm, do nhà sư Ấn Độ Trí Dược lập vào năm 502 đời nhà
Lương. Đến đời nhà Tống, chùa đổi tên là Nam Hoa.
2. Gậy thần bằng kim loại của các đạo sư biểu hiện cho
thần lực. Còn được gọi là phi tích (gậy bay) vì tương truyền các đạo sư cưỡi
gậy bay để di chuyển.
3. Sư Huệ Năng, tổ thứ sáu Thiền tông Trung Quốc có câu
kệ sau:
Bồ đề bản vô thụ
Minh kiến diệc phi đài.
(Bồ đề vốn không có cây
Gương sáng cũng không có đài).
Ý nói truyền đạo thẳng vào tâm gọi là tâm ẩn, hoặc do tâm mà ra, không có hình thức cụ thể. Lại có câu thơ cũ:
Bồ đề vô thụ, kính phi đài
Vạn sự giai tòng tâm lí lai.
(Bồ đề không phải là cây thực, gương thì chẳng có đài
Vạn sự đều từ trong lòng mà đến.
Bồ đề bản vô thụ
Minh kiến diệc phi đài.
(Bồ đề vốn không có cây
Gương sáng cũng không có đài).
Ý nói truyền đạo thẳng vào tâm gọi là tâm ẩn, hoặc do tâm mà ra, không có hình thức cụ thể. Lại có câu thơ cũ:
Bồ đề vô thụ, kính phi đài
Vạn sự giai tòng tâm lí lai.
(Bồ đề không phải là cây thực, gương thì chẳng có đài
Vạn sự đều từ trong lòng mà đến.
4. Các bản Nguyễn Trãi Toàn Tập và Ức Trai Tập đều phiên
là khám (có lẽ theo âm Việt chăng ?)
5. Con suối chảy qua trước chùa Nam Hoa, có thể xem như
tượng trưng cho cảnh trí ở đây.
Dịch nghĩa
Chơi chùa Nam Hoa
Gậy
thần tích bay đến đây đã mấy trăm xuân rồi
Hương hỏa chùa Bảo Lâm họp cùng nhân duyên trước.
Rồng giáng, hổ phục, mấy huyền vi thật thần diệu
"Không cây, cũng không đài" lời nói nghe như mới
Bên điện dựng lầu giữ gìn bát Phật
Trong hộp còn ghi dấu nhưng chân thân đã giải thoát
Một dòng suối Tào Khê tuôn trước cửa
Rửa sạch bụi bám đời đời cho nhân gian
Hương hỏa chùa Bảo Lâm họp cùng nhân duyên trước.
Rồng giáng, hổ phục, mấy huyền vi thật thần diệu
"Không cây, cũng không đài" lời nói nghe như mới
Bên điện dựng lầu giữ gìn bát Phật
Trong hộp còn ghi dấu nhưng chân thân đã giải thoát
Một dòng suối Tào Khê tuôn trước cửa
Rửa sạch bụi bám đời đời cho nhân gian
Dịch thơ
Gậy bay đã
tới mấy trăm xuân
Hương hỏa Bảo
Lâm ước cổ nhân
Hổ phục rồng
nằm bao thần diệu
Đài không
cây chẳng lại thanh tân
Dựng lầu
bên điện gìn âu Phật
Trong khám
còn lưu dấu lột thân
Trước cửa
Tào Khê dòng suổi chảy
Nhân gian
kiếp kiếp rũ phong trần.
Đỗ Đình
Tuân dịch
12/6/2012
Đỗ Đình Tuân
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét