Thứ Sáu, 1 tháng 6, 2012

Dịch thơ cổ: Nguyễn Trãi 14


Bài 16
漫成其一
Mạn thành (I) kỳ nhất
眼中浮世總浮雲,
Nhãn trung phù thế tổng phù vân, 
蝸角驚看日晉秦。
Oa giác kinh khan nhật Tấn Tần (1)
天或喪斯知有命,
Thiên hoặc táng tư tri hữu mệnh, 
邦如有道亦羞貧。
Bang như hữu đạo diệc tu bần.
陳平自信能為宰,
Trần Bình (2) tự tín năng vi tể,
杜甫誰憐已誤身。
Đỗ Phủ (3) thùy liên dĩ ngộ thân.
世事不知何日了,
Thế sự bất tri hà nhật liễu,
扁舟歸釣五湖春。
Biển chu quy điếu Ngũ Hồ (4) xuân.
                                   阮廌
                           Nguyễn Trãi
Ghi chú
1. Tấn và Tần là hai nước vào đời Xuân Thu ở Trung Quốc thường đánh nhau, ví như hai nước trong sách Trang Tử, một đằng gọi sừng con ốc sên (oa giác) là man, đằng kia gọi là xúc, và cứ thế tranh chấp mãi.
2. Trần Bình người Trung Quốc, thuở nhỏ nhà nghèo, làm việc chia thịt trong làng xã, được các phụ lão khen, bèn nói nếu làm được tể tướng trong thiên hạ thì cũng sẽ làm tốt như việc chia thịt. Về sau quả nhiên giúp Lưu Bang Hán Cao Tổ làm đến chức Tả Thừa Tướng.
3. Đại thi hào đời nhà Đường (Trung Quốc). Người đại tài nhưng khổ suốt đời, nói: "Nho quan đa ngộ thân", nghĩa là cái mũ nhà Nho lắm khi khiến bị hiểu lầm, sinh lụy. Ý nói đạo Nho có lúc chẳng hợp thời
4. Một hồ lớn ở Tô Châu (Trung Quốc) thường được dùng để chỉ nơi ở ẩn của những nhân vật không thích công danh phú quý nữa và tránh mọi liên lụy. Như trường hợp của Phạm Lãi, sau khi giúp Việt Vương Câu Tiễn báo thù được Ngô Vương Phù Sai, đã bỏ đi ở ẩn, ngao du ở Ngũ Hồ. Đường thi có câu:
Thùy giải thừa châu tầm Phạm Lãi
Ngũ Hồ yên thủy cộng vong ky.
(Ai biết thuyền con tìm Phạm Lãi
Ngũ Hồ mây nước chuyện đời khuây).
Dịch nghĩa
Tản mạn (I) kỳ 1
Nhìn vào cuộc thế đều là mây nổi cả
Sợ thấy cảnh Tấn Tần tương tranh hằng ngày như chuyện sừng ốc sên
Khi Trời đã bỏ mất nền tư văn tất có mệnh
Nước có đạo đức mà nghèo thì cũng xấu hổ
Trần Bình tự tin có thể làm tể tướng
Đỗ Phủ ai ngờ bị lầm lẫn mà thân phải khổ
Việc đời không biết ngày nào xong
Chèo một con thuyền nhỏ về câu cá mùa xuân ở Ngũ Hồ (là tốt).
Dịch thơ
Nhìn vào cuộc thế thảy phù vân
Sợ thấy giao tranh giữa Tấn-Tần
Trời bỏ tư văn hay có mệnh
Nước còn đạo đức thẹn ngu bần
Trần Bình tự biết làm thừa tướng
Đỗ Phủ ai ngờ mãi khổ thân
Biết đến khi nào đời hết việc
Thuyền con câu cá ngũ hồ xuân
                  Đỗ Đình Tuân dịch
Bài 17
漫成其二
Mạn thành (I) kỳ nhị
博山香燼午窗虛,
 Bác sơn (1) hương tẫn ngọ song hư,
懶性從來愛索居。
Lạn tính tòng lai ái tác (2) cư. 
家有琴書兒輩樂,
Gia hữu cầm thư nhi bối lạc,
門無車馬故人疏。
Môn vô xa mã cố nhân sơ. 
齏鹽隨分安衡泌,
Tê diêm tuỳ phận an hoành bí (3)
湖海棲身憶釣魚。
Hồ hải thê thân ức điếu ngư.
與世漸疏頭向白,
Dữ thế tiệm sơ đầu hướng bạch,
東山日日賦歸輿。
Đông Sơn (4) nhật nhật phú quy dư.
                                  阮廌
                           Nguyễn Trãi
Ghi chú
1. Đỉnh trầm có trang trí hình núi (Bác sơn) dưới có chứa nước sôi để hơi bốc lên hoà với hương trầm khỏi hại mắt.
2. Nguyễn Trãi Toàn Tập phiên là sách, ở đây phiên là tác có lẽ hợp hơn, theo thành ngữ "ly quần tác cư" (lìa đàn ở một mình).
3. ên với cây tre ngáng cửa và suối nước. Hai chữ hoành bí là do hai câu thơ trong bài Hoành Môn (Kinh Thi):
Hoành môn chi hạ khả dĩ thê trì
Bí chi dương dương khả dĩ lạc cơ.
(Dưới cây ngáng ở cửa có thể nương thân được
Bên suối nước có thể vui mà quên đời).
4.
Một ngọn núi tại tỉnh Triết Giang (Trung Quốc) nơi Tạ Ân, người có tiếng phong lưu đời Tấn ở ẩn. Tại miền Bắc Việt Nam cũng có núi Đông Sơn (theo sách An Nam Chí Lược của Lê Tắc).
Dịch nghĩa
Tản mạn (I) kỳ 2
Lò trầm hương đã cháy hết, cửa sổ buổi trưa để ngỏ
Tính lười trước nay vốn thích ở một mình
Nhà có đàn có sách thì con cháu vui
Ngoài cửa không có xe ngựa tức bạn bè xa
An phận muối dưa nơi cửa ngõ thô sơ, nước non rộng rãi
Nương mình chỗ hồ biển nhớ thú chài lưới
Dần bớt thân thiện với cuộc đời đầu tóc đã đốm bạc
Ngày ngày cứ nuôi ý về núi Đông Sơn chăng?
Dịch thơ
Cháy hết lò trầm ngỏ cửa trưa
Tính lười nên ở một mình ưa
Có đàn có sách vui bầy trẻ
Không ngựa không xe ít bạn bè
An phận muối dưa nơi rộng thoáng
Nương mình sông nước thú câu te
Bớt gần thế cuộc đầu thêm bạc
Bữa bữa Đông Sơn những muốn về
              
       Đỗ Đình Tuân dịch
Bài 18
酬友人見寄
Thù hữu nhân kiến ký
矯矯龍襄萬斛舟,
Kiểu kiểu long tương vạn hộc chu, 
安行每懼覆中流。
 An hành mỗi cụ phúc trung lưu.
事堪涕淚非言說,
Sự kham thê lệ phi ngôn thuyết,
運落風波豈智謀。
Vận lạc phong ba khởi trí mưu. 
身外浮名煙閣迥,
Thân ngoại phù danh Yên Các (1) quýnh, 
夢中花鳥故山幽。
 Mộng trung hoa điểu cố sơn u.
慇懃堪謝鄉中友,
Ân cần kham tạ hương trung hữu,
聊把新詩寫我愁。
Liêu bả tân thi tả ngã sầu.
                                阮廌
                           Nguyễn Trãi
Ghi chú
1. (lầu khói) Nơi vua Đường Thái Tông (Trung Quốc) cho treo hình của các bậc danh tướng, cũng như Hán Minh Đế (Trung Quốc) cho vẽ hình của các công thần treo ở Vân Đài (đài mây), một hình thức biểu dương công trạng.
Dịch nghĩa
Đáp thư bạn
Con thuyền muôn hộc lướt mạnh mẽ như rồng
Dù đi yên ổn nhưng vẫn sợ bị lật giữa dòng
Việc đáng ứa lệ nhưng không nói được
Vận rơi vào cảnh phong ba, mưu trí thế nào được
Phù danh ở ngoài bản thân mình, xa rời Yên Các
Hoa và chim ở trong giấc mơ, cảnh non quê lặng lẽ
Ân cần xin tạ lòng các bạn trong làng
Tạm mang mấy vần thơ mới để giải bày mối sầu của ta.
Dịch thơ
Con thuyền muôn hộc lướt như rồng
Yên ả mà e lật giữa dòng
Việc đáng rơi châu không thể nói
Phong ba gặp cảnh há mưu dùng
Ngoài thân danh hão xa lầu khói
Trong mộng chim hoa tạnh núi sông
Các bạn ân cần xin cảm tạ
Mấy vần thơ tả nỗi sầu đong.
                Đỗ Đình Tuân dịch
Bài 19
和友人煙霞寓興其一
Hoạ hữu nhân Yên hà ngụ hứng kỳ nhất
蓬萊弱水杳無涯,
Bồng Lai (1) Nhược Thuỷ (2) diểu vô nha (nhai),
俗境低回髮半花。
Tục cảnh đê hồi phát bán hoa
雲外故居空蕙帳,
Vân ngoại cố cư không huệ trướng,
月中清夢遶山家。
Nguyệt trung thanh mộng nhiễu sơn gia.
心如野鶴飛天際,
Tâm như dã hạc phi thiên tế,
跡似征鴻踏雪沙。
Tích tự chinh hồng (3) đạp tuyết sa.
岩穴棲身何日是,
Nham huyệt thê thân hà nhật thị?
天門回首五雲賒。
Thiên môn (4) hồi thủ ngũ vân xa
                                阮廌
                           Nguyễn Trãi
Ghi chú
1+2 Bồng Lai, Nhược Thuỷ: Bồng Lai là tên hòn đảo trong Bột Hải, tương truyền có tiên ở. Trong Bột Hải có Bồng Lai, Phương Trượng và Doanh Châu. Xung quanh ba đảo này có một biển nước bao bọc là Nhược Thủy, một thứ nước rất yếu, vứt cái lông ngỗng xuống cũng chìm, không đỡ nổi một hạt cải. Người xưa cho chỗ đó chỉ có thần tiên ở được thôi. Nghĩa bóng chỉ chỗ ở đẹp đẽ thoát tục.
3. Do câu thơ của Tô Thức "Nhân sinh đáo xứ tri hà tự? Ưng tự phi hồng đạp tuyết nê" (Đời người ta giống như cái gì? Phải chăng như chim hồng dẫm trên làn tuyết. Trên làn tuyết ngẫu nhiên để lại vết chân, chim hồng bay nào kể chi đông tây).
4. Cửa trời, chỉ cung điện nhà vua, cũng như nói ngũ vân (chỗ mây năm sắc, hoặc chỗ có điềm lành).
Dịch nghĩa
Hoạ bài thơ "Yên hà ngụ hứng" của bạn kỳ 1
Non Bồng nước Nhược mịt mờ không bờ bến,
Cảnh tục quẩn quanh tóc đã hoa râm một nửa.
Nơi ở cũ ngoài mây, bỏ không trướng huệ,
Giấc mộng thanh đêm trăng, dạo quanh nhà trên núi.
Lòng như hạc nội bay giữa bầu trời,
Dấu tựa chim hồng dẫm trên bãi tuyết.
Ngày nào mới được về nương thân nơi hang đá,
Quay đầu nhìn cửa trời, năm thức mây đã xa.
Dịch thơ
Bồng Lai nhược thủy rộng vô bờ
Cảnh tục loanh quanh tóc đốm hoa
Nơi cũ ngoài mây không trướng huệ
Đêm trăng mộng nhẹ dạo quanh nhà
Lòng như hạc nội bay trời thẳm
Dấu tựa chim hồng dẫm tuyết sa
Ngày nào được trở về hang đá
Ngoái cổ nhìn mây năm sắc xa ?
               Đỗ Đình Tuân dịch

Bài 20
和友人煙霞寓興其二
Hoạ hữu nhân Yên hà ngụ hứng kỳ nhị
茆屋三間野水涯,
Mao ốc (1) tam gian dã thuỷ nha (nhai),
少年剝洛舊紛華。
Thiếu niên bác lạc cựu phân hoa. 
得安份處仍隨分,
Đắc an phận xứ nhưng tuỳ (2) phận, 
未出家時且駐家。
Vị xuất gia (3) thì thả trú gia
檻裡雲山無寵辱,
Hạm lý vân sơn vô sủng nhục,
城中軒冕總塵沙。
Thành trung hiên miện (4) tổng trần sa.
葛翁一去今千載,
Cát ông (5) nhất khứ kim thiên tải, 
丹灶寒煙歲月賒。
Đơn táo hàn yên tuế nguyệt xa.
                                阮廌
                           Nguyễn Trãi
Ghi chú
1. Ức Trai Tập lẫn Ức Trai Thi Tập cùng ghi mao thuỷ nhưng phiên ngang thuỷ. Nguyễn Trãi Toàn Tập ghi mão ốc. Chúng tôi thiển nghĩ đây là mao ốc, chữ mao còn đọc là lữu (rao lữu - brasenia schreberi), cùng nghĩa với chữ mao (cỏ tranh).
2. Ức Trai Thi Tập ghi: tuỳ an phận (?)
3. Dùng theo nghĩa xuất, xử (ra phục vụ hay ở ẩn).
4.(mũi cỗ xe và mũ) Theo cổ chế Trung Quốc, các quan chức từ đại phu trở lên được dùng xe và đội mũ miện, do đó hiên miện dùng để chỉ quan vị tước lộc hoặc để tôn xưng người hiền quý.
5. Tức Cát Hồng, nhà Đạo học Trung Quốc nổi tiếng đời Tấn, từng luyện linh đơn, cho rằng có thể uống để thành tiên.
Dịch nghĩa
Hoạ bài thơ "Yên hà ngụ hứng" của bạn kỳ 2
Ba gian nhà cỏ ở bờ nước trong đồng nội
Buổi thiếu niên đã tránh được (bỏ rơi) cảnh sống phồn hoa
Được chỗ yên phận thì cứ yên phận
Chưa đến lúc xuất gia (phò việc nước) thì cứ phải ở nhà
Trong cửa nhìn ra mây núi không thấy vinh nhục nữa
Xe cộ áo mão trong thành thảy đều là cát bụi cả
Cát Ông đã ra đi đến nay là nghìn năm rồi
Bếp luyện linh đơn đã tàn tro lạnh khói bao nhiêu năm tháng xa xưa.
Dịch thơ
Nhà cỏ ba gian nước mép bờ
Thiếu thời xa được cảnh phồn hoa
Được nơi yên phận nên yên phận
Chưa phải phò vua cứ  ở nhà
Tựa cửa trông mây đâu quý tiện
Trong thành áo mão thảy phù sa
Cát Ông đi mãi không về nữa
Bếp luyện linh đơn tắt đã xa.
                Đỗ Đình Tuân dịch

2/6/2012
Đỗ Đình Tuân


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

ĐẾM TIỀN

Ông ngồi giương kính đếm tiền Đồng tiền mỏng thế mà liền với xương Tiền này là khoản tiền lương Là tiền năm tháng chiến trường cho ta ...