Chủ Nhật, 3 tháng 6, 2012

Dịch thơ cổ: Nguyễn Trãi 16


THƠ LÀM TRONG THỜI Ở ẨN TẠI CÔN SƠN (16 BÀI)

Bài 1
江行
Giang hành
西津初艤棹,
Tây tân sơ nghĩ trạo, 
風景便江湖。
Phong cảnh tiện giang hồ.
雨過山容瘦,
Vũ quá sơn dung sấu,
天長鴈影孤。
Thiên trường nhạn ảnh cô
滄浪何處是?
Thương Lang (1) hà xứ thị?
漁釣好為徒。
Ngư điếu hảo vi đồ. 
回首東華地,
Hồi thủ Đông Hoa địa, (2)
塵埃覺已無。
Trần ai giác dĩ vô.
                              阮廌
                         Nguyễn Trãi
GHI CHÚ
1. Phần hạ lưu sông Hán (Trung Quốc). Hai câu thơ 5 và 6 đề cập khúc sông này và những ngư phủ sống ở đây khiến nhớ lại bài ca Ngư Phủ của Khuất Nguyên trong Sở Từ. Cuối bài có hai câu: "Thương Lang chi thuỷ thanh hề, khả dĩ trạc ngã anh, Thương Lang chi thuỷ trọc hề, khả dĩ trạc ngã túc" (Dòng nước Thương Lang trong ư? Ta có thể giặt giải mũ, Dòng nước Thương Lang đục ư? Ta có thể rửa chân).
2. Nơi có cửa Đông Hoa môn của hoàng cung, lối dành cho các quan chức được đòi vào chầu vua. Đây ý nói về nơi đô hội.
Dịch nghĩa
Đi thuyền trên sông
Vừa ghé bên bến phía tây
Quả là cảnh đẹp tiện ngao du
Dáng núi gầy đi sau cơn mưa
Bên trời xa lẻ loi một bóng nhạn
Dòng sông Thương Lang ở đâu đây?
Vui đánh bạn với dân chài cũng tốt lắm
Nghoảnh lại nhìn đất Đông Hoa
Tự thấy ta như rũ sạch bụi trần.
Dịch thơ
Bến tây thuyền vừa ghé
Phong cảnh thật nên thơ
Mưa tạnh dáng núi nhỏ
Trời cao bóng nhạn cô
Dòng Thương Lang đâu tá
Bạn chài lưới tha hồ
Ngoái nhìn Đông Hoa ngõ
Ta sạch rồi bụi nhơ.
          Đỗ Đình Tuân dịch

Bài 2
題雲窩
Đề vân oa
半簾花影滿床書,
 Bán liêm hoa ảnh mãn sàng thư,
庭外蕭蕭水竹居。
Đình ngoại tiêu tiêu thuỷ trúc cư.
盡日雲窩無箇事,
Tận nhật Vân Oa vô cá sự,
黑甜一枕半窗虛。
 Hắc điềm (1) nhất chẩm bán song hư.
                               阮廌
                         Nguyễn Trãi
Ghi chú
1.
Ngủ say. Thơ Tô Thức: "Tam bôi nguyễn bão hậu, Nhất chẩm hắc điềm dư (Sau khi uống no nhừ ba chén rượu, Kê gối tha hồ ngủ một giấc say).
Dịch nghĩa
Đề am mây
Bóng hoa in trên nửa bức rèm, giường đầy những sách
Ngoài sân tĩnh mịch có những thuỷ trúc
Suốt ngày ở am mây chẳng làm gì cả
Một chiếc gối, ngủ ngon giấc bên song cửa khép hờ.
Dịch thơ
Nửa mành hoa, sách đầy giường
Ngoài sân thủy trúc gió vờn rung rinh
Am mây ngày vắng nhàn tênh
Nửa song một gối riêng mình giấc ngon.
                        
Đỗ Đình Tuân dịch
Bài 3
蒙山中
Mộng sơn trung
清虛洞裡竹千竿,
Thanh Hư (1) động lý trúc thiên can, 
飛瀑霏霏落鏡寒。
Phi bộc phi phi lạc kính hàn.
昨夜月明天似水,
Tạc dạ nguyệt minh thiên tự thuỷ,
夢騎黃鶴上仙壇
Mộng kỳ hoàng hạc (2) thượng tiên đàn.
                               阮廌
                         Nguyễn Trãi
Ghi chú
1.Động Thanh Hư: một vùng đất thuộc Côn Sơn ngày nay, tại đây Trần Nguyên Đán có cho xây dựng một hệ thống công trình kiến trúc để thưởng ngoạn phong cảnh, di dưỡng tinh thần khi ông về trí sĩ tại đây(1385). Công trình kiến trúc ấy được vua Trần Duệ Tông ngự bút đặt cho là Thanh Hư động.
2.Cưỡi hạc: xưa truyền rằng những người lên cõi tiên thường cưỡi hạc vàng hay hạc trắng.Vương Tử Kiều(tức Vương Tử Kiến) con vua Chu Linh Vương, được đạo sĩ đưa lên núi Tung Sơn tu luyện hai mươi năm, rồi cưỡi hạc trắng bay lên cõi tiên.Tử An cũng cưỡi hạc vàng bay qua cái lầu ở huyện Vũ Xương, tỉnh Hồ Bắc(Trung Quốc). Phí Văn Huy cưỡi hạc vàng bay lên tiên cũng đến nghỉ ở đấy, nên lầu ấy được đặt tên là lầu Hoàng Hạc. sau này Thôi Hiệu qua đây có làm bài thơ Hoàng Hạc Lâu nổi tiếng, trong đó có câu:
                                    Hạc vàng ai cưỡi đi đâu,
                                    Mà nay Hoàng hạc riêng lầu còn trơ.
                                                                        Tản Đà dịch

Dịch nghĩa
Mộng trong núi
Trong động Thanh Hư có hàng nghìn cây trúc
Thác nước bay xuống như lớp kính lạnh
Đêm qua trăng sáng trời như nước
Chiêm bao thấy cưỡi hạc vàng lên cõi tiên.
Dịch thơ
Trong động Thanh Hư  nghìn khóm trúc,
Thác bay như kính lạnh như băng.
Đêm qua trăng sáng trời như nước,
Cưỡi hạc  nằm mơ tới chị Hằng.
                        Đỗ Đình Tuân dịch
Bài 4
暮春即事
Mộ xuân tức sự
閑中盡日閉書齋,
Nhàn trung tận nhật bế thư trai,
門外全無俗客來。
Môn ngoại toàn vô tục khách lai.
杜宇聲中春向老,
Ðỗ Vũ (1) thanh trung xuân hướng lão,
一庭疏雨楝花開。
Nhất đình sơn vũ luyện hoa khai.
                               阮廌
                         Nguyễn Trãi
Ghi chú
1.
Tên một vua nhà Thục (Trung Quốc) được đặt cho chim đỗ quyên, tức chim cuốc, còn có tên là từ quy, tiếng kêu nghe rất buồn thảm. Tương truyền vua Thục vì thông dâm với vợ đại thần là Biệt Linh nên phải nhường ngôi cho Biệt Linh và bỏ nước ra đi. Sau khi chết biến thành chim đỗ quyên, vào hè kêu thảm thiết, tỏ ý nhớ tổ quốc quê hương. Tức cảnh cuối xuân
Nhàn rỗi suốt ngày đóng cửa phòng sách
Ngoài cửa vắng khách tục đến
Trong tiếng đỗ vũ kêu ý chừng xuân đã muộn
Cả một sân hoa soan nở dưới mưa phùn.
Dịch thơ
Suốt ngày nhàn đóng phòng văn
Ngoài hiên vắng vẻ không chân tục vào
Xuân già trong tiếng cuốc kêu
Sân mưa lất phất rụng nhiều hoa xoan.
                    
Đỗ Đình Tuân dịch
Bài 5
寨頭春渡
Trại đầu xuân độ
渡頭春草綠如煙,
Ðộ đầu xuân thảo lục như yên,
春雨添來水拍天。
Xuân vũ thiêm lai thuỷ phách thiên (1).
野徑荒涼行客少,
Dã kính hoang lương hành khách thiểu
孤舟鎮日擱沙眠。
Cô chu trấn nhật các sa miên.
                              阮廌
                         Nguyễn Trãi
Ghi chú
1.
Nước vỗ trời. Lấy theo bản Đào Duy Anh. (Các bản Dương Bá Cung, Nguyễn Gia Tuân đều ghi "nguyệt phách thiên"). Chúng tôi thiển nghĩ đây là cảnh trời xuân có mưa ban ngày.
Dịch nghĩa
Bến đò mùa xuân ở đầu trại
Cỏ xuân ở đầu bến đò, xanh biếc như khói,
Lại thêm mưa xuân nước tiếp ngang trời.
Ðường đồng nội vắng tanh, ít người qua lại,
Ngày thường chiếc đò cô độc ghếch mái chèo lên bãi cát mà nằm yên.
Dịch thơ
Cỏ xuân đầu trại xanh như khói
Lất phất thêm mưa nước phủi trời
Đường nội vắng tanh người ít bóng
Con thuyền gối bãi ngủ đơn côi.
                      
Đỗ Đình Tuân dịch
4/6/2012
Đỗ Đình Tuân

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

ĐẾM TIỀN

Ông ngồi giương kính đếm tiền Đồng tiền mỏng thế mà liền với xương Tiền này là khoản tiền lương Là tiền năm tháng chiến trường cho ta ...