Thứ Bảy, 30 tháng 6, 2012

Dịch thơ cổ: Chu Văn An 4


Bài 9
村南山小憩
Thôn Nam sơn tiểu khế
閑身南北片雲輕,
Nhàn thân nam bắc phiến vân khinh, 
半枕清風世外情。
Bán chẩm thanh phong thế ngoại tình.
佛界清幽塵界遠,
Phật giới thanh u, trần giới viễn,
庭前噴血一鶯鳴。
Đình tiền phún huyết nhất oanh minh.
                         朱文安
                    Chu Văn An
Dịch nghĩa
Tạm nghỉ ở núi Thôn Nam
Thân nhàn như đám mây nhẹ bay khắp nam bắc,
Gió mát thổi bên gối, tâm tình để ngoài cuộc đời.
Cõi phật thanh u, cõi trần xa vời,
Trước sân, hoa đỏ như máu, một chiếc oanh kêu.
Dịch thơ
Thân nhàn nam bắc áng mây qua
Nửa gối gió trăng mộng hải hà
Oanh hót trước sân hoa đỏ máu
Thanh u cõi Phật cõi đời xa.
                   Đỗ Đình Tuân dịch

Bài 10
次韻贈水雲道人
Thứ vận tặng Thuỷ Vân đạo nhân
平生膽氣鶚橫秋,
Bình sinh đảm khí ngạc (2) hoành thu, 
翰墨場中一戰收。
Hàn mặc trường trung nhất chiến thu. 
茅屋玉堂皆有命,
Mao ốc ngọc đường (3) giai hữu mệnh,
濁涇清渭不同流。
Trọc Kinh (4) thanh Vị (5) bất đồng lưu. 
老逢昭代知何補,
Lão phùng chiêu đại tri hà bổ,
身落窮山笑拙謀。
Thân lạc cùng sơn tiếu chuyết mưu.
檢點年年貧活計,
Kiểm điểm niên niên bần hoạt kế, 
茶甌詩卷伴湯休。
Trà âu, thi quyển bạn Thang Hưu (6)
.                                  朱文安
                               Chu Văn An
Ghi chú
1. Thuỷ Vân Ðạo nhân: có lẽ là Trần Anh Tông. Anh Tông có sách "Thuỷ Vân tuỳ bút".
2. Chim ngạc: một loài chim bắt cá ở biển, còn gọi là thuỷ ưng hay thư cưu.
3. Nhà ngọc: vua Tống Thái Tông tặng cho viện Hàn lâm thời đó hai chữ "Ngọc đường". ở đây chỉ cảnh hiển đạt của cuộc đời làm quan.
4+5 Sông Kinh, sông Vị: sông Kinh phát nguyên từ Kê Ðầu Sơn thuộc vùng Nguyên Châu; sông Vị phát nguyên từ Ô Thử Sơn thuộc vùng Vị Châu. Hai sông này gặp nhau ở Cao Lăng, mới rõ nước sông Kinh đục, nước sông Vị trong. Hình tượng này dùng trong thơ thường được hiểu theo nghĩa bóng.
6. Chưa rõ là ai. (Theo "Từ nguyên", có thầy tu tên là Thích Huệ Hưu giỏi văn chương, một lần vua Tống Thế Tổ gặp bảo hoàn tục và cho làm tòng sự ở Dương Châu. Phải chăng Thang Hưu tác giả nói là Thích Huệ Hưu?).
Dịch nghĩa
Hoạ vần tặng Thuỷ Vân đạo nhân
Chí khí dũng cảm thuở bình sinh như chim ngạc bay ngang trời thu,
Trong trường bút mực, chỉ một trận là được.
Nhà tranh hay nhà ngọc, đều có số mệnh,
Sông Kinh đục, sông Vị trong, vốn không chảy cùng dòng
Già gặp thời sáng sủa, biết chẳng ích gì,
Thân rơi vào núi thẳm, cười mình mưu vụng.
Hàng năm kiểm điểm lại cái sinh kế nghèo,
Vẫn âu trà, cuốn thơ, làm bạn với Thang Hưu.
Dịch thơ
Bình sinh dũng khí ngạc tung trời
Bút mực trường văn chỉ thắng người
Nhà ngọc lều tranh đều tại số
Vị trong Kinh đục chảy đôi nơi
Thân rơi núi thắm cười mưu vụng
Già gặp thời minh vô ích thôi
Kiểm điểm hàng năm sinh kế bí
Trà âu thơ quyển bạn vui chơi.
                  Đỗ Đình Tuân dịch

Bài 11
望泰陵
Vọng Thái Lăng
松秋深鎖日將夕,
Tùng thu thâm toả nhật tương tịch, 
煙草如苔迷亂石。
Yên thảo như đài mê loạn thạch.
黯淡千山風更愁,
Ảm đảm thiên sơn phong cánh sầu, 
消沉萬古雲無跡。
Tiêu trầm vạn cổ vân vô tích. 
溪花欲落雨絲絲,
Khê hoa dục lạc vũ ti ti,
野鳥不歸山寂寂。
Dã điểu bất đề sơn tịch tịch.
幾度躊躇行復行,
Kỷ độ trù trừ hành phục hành,
平蕪無盡春生碧。
Bình vu vô tận xuân sinh bích.
Dịch nghĩa
Trông về Thái Lăng
Cây tùng cây thu khoá kín trời sắp về chiều,
Cỏ non xanh rợn, như rêu che lấp những hòn đá ngả nghiêng.
Ngàn non ảm đạm, gió thổi càng thêm buồn,
Muôn thuở tiêu tan, mây không để lại dấu vết.
Hoa bên suối sắp rụng, mưa lất phất,
Chim ngoài đồng nội im tiếng, núi quạnh hiu.
Mấy lần dùng dằng, đi rồi lại đi,
Cỏ rậm bát ngát, sắc xuân xanh biếc.
Dịch thơ
Tùng thu khóa kín trời chiều
Ngả nghiêng đá cỏ như rêu xanh rờn
Ngàn non ảm đạm thêm buồn
Tiêu tan muôn thuở mây còn dấu đâu?
Hoa tàn bên suối mưa mau
Không chim nội cỏ một bầu vắng tanh
Dùng dằng đi lại loanh quanh
Cỏ hoang bát ngát xuân xanh biếc trời.
                      Đỗ Đình Tuân dịch

Bài 12
春旦
Xuân đán
寂寞山家鎮日閒,
Tịch mịch sơn gia trấn nhật nhàn, 
竹扉斜擁護輕寒。
Trúc phi tà ủng hộ khinh hàn. 
碧迷草色天如醉,
Bích mê thảo sắc thiên như tuý,
紅濕花梢露未乾。
Hồng thấp hoa tiêu lộ vị can.
身與孤雲長戀岫,
Thân dữ cô vân trường luyến tụ,
心同古井不生瀾。
Tâm đồng cổ tỉnh bất sinh lan.
柏薰半冷茶煙歇,
Bách huân bán lãnh trà yên yết,
溪鳥一聲春夢殘。
Khê điểu nhất thanh xuân mộng tàn.
                                  朱文安
                               Chu Văn An
Dịch nghĩa
Sớm xuân
Nhà trên núi vắng vẻ, suốt ngày thảnh thơi,
Cánh cửa phên che nghiêng ngăn cái rét nhẹ.
Màu biếc át cả sắc mây, trời như say,
Ánh hồng thấm nhành hoa sương sớm chưa khô.
Thân ta cùng đám mây cô đơn mãi mãi lưu luyến hốc núi,
Lòng giống như mặt giếng cổ, chẳng hề gợn sóng.
Mùi khói thông sắp hết, khói trà đã tắt,
Một tiếng chim bên suối làm tỉnh mộng xuân.
Dịch thơ
Trên non nhà vắng ngày nhàn,
Phên nghiêng ngăn ngọn gió hàn nhẹ bay.
Ngút ngàn cỏ biếc trời say,
Cánh hoa thấm ánh hồng lay trước vườn.
Thân như mây bện sườn non,
Lòng như giếng cổ không còn sóng lan.
Khói thông vãn, khói trà tan,
Tiếng chim bên suối kêu tàn mộng xuân. 
                               Đỗ Đình Tuân dịch   

                                                              
 1/7/2012
Đỗ Đình Tuân


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

ĐẾM TIỀN

Ông ngồi giương kính đếm tiền Đồng tiền mỏng thế mà liền với xương Tiền này là khoản tiền lương Là tiền năm tháng chiến trường cho ta ...