Nguyễn Bỉnh
Khiêm
Nguyễn Bỉnh Khiêm nguyên có tên khai sinh là Nguyễn Văn Đạt, sinh năm Tân Hợi, niên
hiệu Hồng Đức thứ 22 dưới triều Lê Thánh Tông (1491), tại làng Trung Am, huyện Vĩnh Lại, phủ Hạ
Hồng, trấn Hải Dương (nay thuộc xã Lý Học, huyện Vĩnh Bảo, thành phố Hải Phòng). Cha ông là giám sinh Nguyễn Văn Định, đạo hiệu là Cù Xuyên nổi tiếng hay chữ
nhưng không thành đạt trên đường khoa cử. Mẹ ông là bà Nhữ Thị Thục, con gái út
của quan Tiến sĩ Thượng thư bộ Hộ Nhữ Văn Lan (triều Lê Thánh Tông). Bà Nhữ Thị
Thục là một người phụ nữ khác thường, học rộng biết nhiều lại giỏi tướng số,
nên muốn chọn một người chồng tài giỏi để sinh con có thể làm nên đế nghiệp.
Mãi đến khi đã luống tuổi bà mới đành phải nghe lời cha lấy ông Định tuy không thành
đạt nhưng có tướng sinh quý tử.
Quê ngoại Nguyễn Bỉnh Khiêm là làng An Tử Hạ, huyên Tiên Minh, phủ
Nam Sách, trấn Hải Dương (nay là thôn Nam Tử, xã Kiến Thiết, huyện Tiên Lãng,
thành phố Hải Phòng, chỉ cách quê nội ông có con sông hàn (Tuyết Giang). Sau
khi sinh được Nguyễn Bỉnh Khiêm, lại tiên đoán nhà Lê sắp suy vong, nên bà Thục
có ý định “rèn cặp” Nguyễn Bỉnh Khiêm để sau này làm vua. Ý định này cùa bà
không được ông Định tán thành. Bà chê ông Định là người không biết dậy con. Vì
thế bà đã bỏ chồng và đem theo Nguyễn Bỉnh Khiêm về ở bên quê ngoại. Tại đây
Nguyễn Bỉnh Khiêm đã được ông ngoại và mẹ đẻ hết lòng dậy dỗ.
Khi Nguyễn Bỉnh Khiêm đến tuổi trưởng thành, nghe ở làng Lạch Triều
(Hoặng Hóa, Thanh Hóa ngày nay) có Bảng Nhãn Lương Đắc Bằng nổi danh trong giới
sỹ phu đương thời, Nguyễn Bỉnh Khiêm đã cất công vào tận đây để tầm sư học đạo.
Lương Đắc Bằng cũng từng giữ chức Thương thư ở thời Lê sơ, nhưng sau khi đề xuất
một số kế sách nhằm ổn định triều chính không được nhà vua thi hành, ông đã cáo
quan về quê dậy học(1509). Nguyễn Bỉnh Khiêm vốn sáng dạ lại chăm chỉ say mê học
hành nên đã trở thành người học trò xuất săc và được thầy Lương Đắc Bằng tin tưởng
và yêu mến. Trước lúc qua đời ông đã trao lại cho Nguyễn Bỉnh Khiêm bộ sách quý
về Dịch học đó là bộ Thái Ất thần kinh
và ủy thác người con trai Lương Hữu Khánh cho Nguyễn Bỉnh Khiêm dạy dỗ.
Sống trong thời đại loạn, không muốn đi lại vết xe cũ của người
thày dậy, Nguyễn Bỉnh Khiêm đã rất đắn đo tính toán trong việc đi thi. Vì thế
mãi đến năm 1535 khi nhà Mạc đã vào thế ổn định, Nguyễn Bỉnh Khiêm mới ra ừ
ứng thí. Kỳ thi ấy ông đỗ Trạng nguyên ở tuổi 45. Ngay sau khi đỗ đạt ông được giao chức Đông các hiệu thư, một chức quan chuyên soạn thảo và sửa chữa văn thư của triều đình. Sau đó ông còn được cử giữ nhiều chức vụ khác nhau như Tả thị lang bộ Hình, Tả thị lang bộ Lại kiêm Đông các Đại học sĩ. Nhưng đến năm Đại Chính thứ 11, Mạc Thái Tông (Mạc Đăng Doanh), đột ngột qua đời, thì triều chính lại nhiễu nhương. Mạc Hiến Tông (Mạc Phúc Hải) còn nhỏ, quan lại chia bè kết phái thi nhau lộng hành, Nguyễn Bỉnh Khiêm dâng sớ xin chém 18 lộng thần nhưng không được vua Mạc chấp thuận. Bởi vậy năm 1542 ông xin về quê trí sĩ sau 8 năm làm quan cho nhà Mạc.
ứng thí. Kỳ thi ấy ông đỗ Trạng nguyên ở tuổi 45. Ngay sau khi đỗ đạt ông được giao chức Đông các hiệu thư, một chức quan chuyên soạn thảo và sửa chữa văn thư của triều đình. Sau đó ông còn được cử giữ nhiều chức vụ khác nhau như Tả thị lang bộ Hình, Tả thị lang bộ Lại kiêm Đông các Đại học sĩ. Nhưng đến năm Đại Chính thứ 11, Mạc Thái Tông (Mạc Đăng Doanh), đột ngột qua đời, thì triều chính lại nhiễu nhương. Mạc Hiến Tông (Mạc Phúc Hải) còn nhỏ, quan lại chia bè kết phái thi nhau lộng hành, Nguyễn Bỉnh Khiêm dâng sớ xin chém 18 lộng thần nhưng không được vua Mạc chấp thuận. Bởi vậy năm 1542 ông xin về quê trí sĩ sau 8 năm làm quan cho nhà Mạc.
Tuy về trí sĩ nhưng triều đình nhà Mạc vẫn hết sức tôn trọng ông.
Năm 1544, vua Mạc cho người về phong tước Trình Tuyền Hầu cho ông; sau lại
thăng lên Thượng thư bộ Lại, Thái phó, tước Trình Quốc Công. Do vậy mà dân gian
quen gọi ông là Trạng Trình. Từ khi về hư đến mãi năm 73 tuổi, tuy không tại
triều nhưng vẫn cáng đáng nhiều việc triều chính, vua Mạc vẫn kính ông như một
vị quân sư. Mãi sau 73 tuổi ông mới thực sự treo ấn từ quan.
Trong những năm trí sĩ và những năm quy ẩn tại quê nhà, Nguyễn Bỉnh
Khiêm có cho dựng am Bạch Vân, quán Trung Tân, cầu Nghinh Phong, cầu Trường
Xuân cho dân qua lại thuận tiện và mở trường dậy học tại sông Tuyết. Vì thế mà
sau này môn sinh mới suy tôn ông là Tuyết Giang phu tử. Học trò của ông nhiều
người hiển đạt như Phùng Khắc Khoan, Lương Hữu Khánh, Trương Thời Cử, Đinh Thời
Trung, Hàn Giang cư sĩ Nguyễn Văn Chính (con giai trưởng của ông)…
Ngày 28 tháng 11 năm Ất Dậu , niên hiệu Đoan Thái nguyên niên
(1585), ông tạ thế tại quê nhà, hưởng thọ 95 tuổi. Vua Mạc Mậu Hợp cử Phụ chính
đại thần Ưng vương Mạc Đôn Nhượng cùng văn võ bá quan về cử hành lễ tang, lại
sai cấp một trăm mẫu tự điền và 3000 quan tiền để dựng đền thờ ông ngay tại quê
nhà và đích thân vua viết chữ lên biển gắn tại đền thờ “ Mạc Triều Trạng nguyên
Tể tướng từ”
Nguyễn Bỉnh Khiêm có cả thảy
ba vợ và 12 người con trong đó có 7 người con trai. Nhưng sau khi nhà Mạc mất
con cái ông phải thay tên đổi họ li tán thập phương. Con tai cả vè Trường Yên
Ninh Bình, con trai út sang An Tử Hạ để trong coi mộ phần và thờ phụng ông ngoại
Nhữ Văn Lan và thân mẫu Nhữ Thị Thục…
Nguyễn Bỉnh Khiêm sáng tác rất
nhiều thơ văn cả bằng chữ Hán và chữ Nôm và đặc biệt nhất có một loại thơ ca
tiên đoán tình hình thời cuộc thường được gọi là Sấm Trạng Trình được lưu hành rộng rãi trong dân gian khá ly kỳ và bí
ẩn thu hút rất nhiều sự chú ý của người đời. Nhưng chưa rõ là đây có thực sự là của ông viết ra hay không (?) Với Chí Linh, Nguyễn Bỉnh Khiêm có
soạn bài Vạn Kiếp từ tế văn. Dưới đây
là bản dịch của bài văn tế:
VĂN TẾ ĐỀN VẠN KIẾP
(Nguyễn Bỉnh Khiêm, hiệu Bạch Vân, Trạng nguyên khoa Ất Mùi năm Đại
Chính thứ 6 (1535) triều Mạc, tước Trình Quốc Công, soạn)
Kính cáo trước thần vị của Đại
Nguyên soái, Khâm sai tiết chế binh mã các quân doanh trong thiên hạ, Thái sư,
Thượng phụ, Thượng Quốc công, Nhân Vũ Hưng Đạo Đại Vương, đước các triều đại
ban sắc phong là Chí trung Đại nghĩa Mậu đức Hồng huân Trác vĩ Thượng Thượng đẳng
thần.
Kính nghĩ:
Dòng dõi họ Trần phái sinh thế
hệ; non nước phương Nam
hun đúc linh thiêng.
Mộng ứng người hiền, lẫy lừng
trời đất thi thố tài năng; lưng đeo kiếm ấn, lồng lộng tâm can chứa ngàn tinh
tú.
Dụng võ phô văn, đảm đương cột
rường đất nước; tôi trung con hiếu, tạo nên sự nghiệp thánh hiền.
Vững vàng trong hiểm nạn, phò
nước như Quách Phần Dương 1; lỗi lạc tỏ quang minh, tận tụy dường
Hán thừa tướng 2.
Rút giáo tỏ chí ba quân hiên ngang trượng
nghĩa; xăm tay “Sát Thát” 3 hai chữ hăng hái diệt thù.
Uy lừng trăm, hùng dũng đoạt
giáo bến đò; bày trận Lục Hoa 4, thần diệu cọc ngầm mặt nước.
Tiết vàng cờ đỏ, thần binh răm
rắp tuân theo mưu thánh; áo ngắn đai dài, vũ khố đầy đủ tề chỉnh quân uy.
Ba lần đánh đuổi giặc Nguyên cứu
vớt sinh linh thoát ách man di; một phen khôi phục nhà Trần vãn hồi nước Nam ngời ngời
phong hóa.
Thân kiêm văn võ bốn triều,
bia thần rạng ngời muôn thuở; thanh danh lẫy lừng hai nước, ngựa đá hùng dũng
ngàn năm.
Vua sáng tôi hiền gặp gỡ,
thiên cổ kỳ duyên; công đức để lại muôn người, tràn trề xuân sắc.
Phú quý về quê, chốn thảo dã vẫn
dự bàn quốc sự; cung đình xa cách, xe rước sứ vẫn tìm đón gót tiên.
Thu sầu lặng ngắm mảnh vườn
cũ, mấy nẻo nào cúc nào tùng; ý nhạc im nghe chốn thiên cung, năm canh tiếng
tiêu tiếng trống.
Quả vậy, danh phúc kiêm toàn,
cõi trời Nam
nào ai dám sánh; xem thế trung thành một dạ, ngọn bút sử cũng khó chép biên.
Một nhà sinh tướng tài mưu lược,
lẫy lừng áo mũ vẻ vang; lịch triều đều phù hộ chiến công, rực rỡ sắc phong ban
tặng.
Sao trời cùng sông núi trường
tồn, cột rường cho muôn thuở; sử sách với cỏ cây còn mãi, trời đất vẫn sắt son.
Sách bí truyền 5
kinh hồn bầy giặc dữ, ánh kiếm át cả sao ngưu; bài hịch văn 6 vỡ mật
lũ gian hùng, nghĩa khí bao trùm vũ trụ
Giúp nước cứu dân, Bạch Đằng
chở dồi dào phúc trạch; trừ gian dẹp giặc, Dược Sơn còn khắc đá ghi công.
Nghi ngút khói hương không đứt,
đền thiêng Vạn Kiếp trang nghiêm; thiêng liêng thờ phụng tôn sùng, sánh với thập
phương Bồ tát.
Cán cân họa phúc thăng bằng,
gương trời soi nào đâu xa cách;tấm lòng chân thành tôn kính, ngỏ lời cầu ắt được
cảm thông.
Chúng tôi:
Từ lâu cung kính phụng thờ;
luôn được đội ơn trời bể
Theo quốc điển Xuân Thu cúng tế;
noi người xưa sớm tối đèn hương.
Ngước nhìn mây giăng đầu Yên
Phụ, gần gang tấc tưởng lăng miếu thuở xưa; vọng ngắm bóng tà chốn trúc cung,
nghìn vạn dặm cỏ cây đượm sắc.
Nguyện tỏ bày nỗi niềm thành
kính; xin soi xét cho cho tấm lòng son.
Ban cho dồi dào ngũ phúc, vinh
hạnh tắm gội ân quang; diệt trừ mọi nối tai ương thảy đều hưởng nhuần huệ vũ.
Nghìn năm sau vẫn hiển hiện về,
linh thiêng khôn kể xiết; bốn phương trời chúng dân sùng phụng, nhờ cậy đến vô
cùng.
Tế văn vụng soạn, khó mong kể
hết công đức cao dày; cầu đảo tán dương, nguyện xin bề trên đèn trời soi xét.
(Theo bản dịch của Di sản Hán Nôm, Ban Quản
lý Côn Sơn Kiếp Bạc
Nhà xuất bản chính trị quốc gia ấn
hành năm 2006)
Ghi chú
1.Quách Phần Dương: tức Quách Tử Nghi, một tướng của
vua Đường Huyền Tông, có nhiều công lao đánh dẹp Thổ Phiên, được phong Phần
Dương Quận vương nên có tên gọi thế.
2.Hán Thừa tướng: chỉ Gia Cát Lượng, thừa tường của
Lưu Bị thời Tam quốc.
3.”Sát Thát”: Sát là giết chết. Thát là Thát Đát tức
quân Mông Cổ.
4. Lục Hoa: tên một thế trận trong phép dùng binh của
Lý Vệ Công đời Đường
5.Sách bí truyền: Chỉ sách Vạn Kiếp tông bí truyền
thư và Binh thư yếu lược
6.Bài hịch văn: tức bài Hịch tướng sĩ văn nổi tiếng của Trần Hưng Đạo.
3/10/2012
(18/8 âm lịch)
Đỗ Đình Tuân
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét