Thứ Ba, 20 tháng 3, 2012

Dịch thơ cổ: Trần Nguyên Đán 7

26.

山中遣兴

十年正省負秋燈
松下行吟倚瘦藤
隨馬望塵無俗客
叩門問字有詩僧
退閒綠野知何及
散級青苗謝不能
坐待功成名遂後
一丘老骨已崚嶒
                陳元旦

Phiên âm:

Sơn trung khiển hứng

Thập niên chính tỉnh phụ thu đăng
Tùng hạ hành ngâm ỷ sấu đằng
Tùy mã vọng trần vô tục khách
Khấu môn vấn tự hữu thi tăng
Thoái nhàn lục dã tri hà cập
Tán cấp thanh miêu tạ bất năng
Tọa đãi công thành danh toại hậu
Nhất khâu lão cốt dĩ lăng tằng.
                           Trần Nguyên Đán

Dịch nghĩa:

Trong núi cảm hứng

Mười năm lo việc chính sự phụ với ngọn đèn thu
Dưới hàng thông chống chiếc gậy thông khẳng khiu vừa đi vừa ngâm
Không có khách tục theo ngựa ngóng bụi trần
Có vị sư tăng gõ cửa hỏi chữ
Lui về sống an nhàn ở lục dã biết còn kịp chăng
Chia tiền theo phép thanh miêu xin từ không dám
Ngồi đợi đến sau này công thành danh toại
Thì một nắm xương tàn đã vùi đắp thành gò cao.

Dịch thơ:
1.
Mười năm chính tỉnh phụ đèn xưa
Chống gậy bên thông đặng đọc thơ
Theo ngựa trông vời không khách tục
Gõ thơ gõ cửa có nhà sư
Lui về lục dã sao còn kịp
Cấp phát thanh miêu thẹn chẳng dư
Ngồi đợi công thành danh đã toại
Một gò xương trắng chất bao giờ.
                        Nguyễn Đức Vân dịch

2.
Mười năm tham chính phụ đèn thu
Gậy bước dưới thông hát gật gù
Không kẻ theo xe vời cát bụi
Có người hỏi chữ một nhà sư
Kịp chăng lục dã lui về ẩn
Theo phép thanh miêu hãy cáo từ
Đợi lúc công thành danh được toại
Xương khô một nắm đắp trong mồ.
                          Đỗ Đình Tuân dịch

27.

贈敏肅

一生堪作鼓角胡
殺披裘躍馬徒
垂後恥無名耿耿
狂歌空有響嗚嗚
誰雲此物非凡物
自觉今吾亦故吾
勸汝勤奉学周孔
誇奇鬦巧有如無
                陳元旦

Phiên âm:

Tặng Mẫn Túc

Nhất sinh kham tác cổ giác hồ
Tiếu sát phi cừu dược mã đồ
Thùy hậu sỉ vô danh cảnh cảnh
Cuồng ca không hữu hưởng ô ô
Thùy vân thử vật phi phàm vật
Tự giác kim ngô diệc cố ngô
Khuyễn nhữ cần phùng học Chu Khổng
Khoa kỳ đấu xảo hữu như vô.
                             Trần Nguyên Đán

Dịch nghĩa:

Tặng Mẫn Túc

Suốt đời nỡ chịu làm việc đánh trống thổi tù và hay sao?
Cười chết được bọn mặc áo cừu nhẹ cưỡi ngựa béo
Sẽ xấu hổ vì không có tiếng tăm để lại
Trong tiếng ca cuồng loạn chỉ vang giọng u u
Ai bảo vật này không phải là vật phi thường
Tự biết ta ngày nay cũng là ta khi xưa
Khuyên người hãy chăm chỉ theo nghiệp Chu Khổng
Việc khoe lạ đua khéo có cũng như không.

Dịch thơ :
1.
Suốt đời đánh trống thổi kèn
Ngựa hay mặc đẹp ai khen mà mừng
Xấu không để tiếng lẫy lừng
Lại ham hát hỏng tửng tưng tiếng đàn
Vật nhỏ nhưng quý vô vàn
Có nay có tốt là nguồn từ xưa
Khuyên người chăm học Khổng Chu
Ganh khôn đua lạ cái trò ra chi.
                             Trần Lê Sáng dịch

2.
Suốt đời đánh trống thổi tù và
Cười chết được người phú quý a ?
Sẽ hổ tuổi tên không để lại
Khi cuồng tiếng hát chỉ nghê nga
Vật này ai bảo chưa thành vật
Tự biết ta thường ấy vẫn ta
Xin gắng học theo Chu-Khổng nghiệp
Có tài khéo ấy vẫn không mà.
                             Đỗ Đình Tuân dịch

28.

軍中有感

操戈持筆片雲身
屈指辭家恰十旬
報曉黃鷄驚旅夢
催歸杜宇送殘春
功名未晚猶他日
萍水相逢無故人
海闊天高空懶散
江平水静白鷗
               陳元旦

Phiên âm:

Trung quân hữu cảm

Thao qua trì bút phiến vân thân
Khuất chỉ từ gia cáp thập tuần
Báo hiểu hoàng kê kinh lữ mộng
Thôi quy đỗ vũ tống tàn xuân
Công danh vị vãn do tha nhật
Bình thủy tương phùng vô cố nhân
Hải khoát thiên cao không lãn tán
Giang bình thủy tĩnh bạch âu thuần.
                                 Trần Nguyên Đán

Dịch nghĩa:

Cảm xúc khi ở trong quân

Mang gươm cầm bút thân như đám mây
Bấm đốt ngón tay xa nhà vừa đúng mười tuần
Gàvàng gáy sáng làm kinh giấc mộng đất khách
Chim cuốc giục về đưa tiễn tiết xuân tàn
Công danh chưa muộn còn có ngày khác
Bèo nước gặp gỡ không người bạn quen
Biển rộng trời cao chỉ những nhàn tản
Sông im song lặng chim âu trắng quen người.

Dịch thơ:
1.
Thân mang gươm bút bước phù vân
Bấm đốt xa nhà trọn chục tuần
Báo sáng gà xui kinh giấc mộng
Giục về xuân gọi tiễn tàn xuân
Công danh chưa muộn chờ ngày khác
Béo nước đâu còn gặp cố nhân
Biển rộng trời cao nhàn tản quá
Sông yên sóng lặng bạch âu gần.
                       Hoàng Lê-Trần Lê Sáng dịch

2.
Xa nhà thân tựa áng phù vân
Bấm đốt ngón tay đã chục tuần
Báo sáng gà vàng kinh mộng khách
Giục về chim cuốc tiễn tàn xuân
Công danh chưa muộn còn ngày khác
Bèo nước gặp nhiều vắng cố nhân
Biển rộng trời cao nhàn nhã vậy
Sóng im sông tạnh bạch âu thuần.
                       Đỗ Đình Tuân dịch


29.

軍中作

平生不願執金吾
談笑油幢豈遠圕
悅目風光何處有
欺天心術一生無
三春啼血鵑聲斷
萬里歸心桂影孤
坐待師徒歌奏凯
南窻枕玉伴青奴
                陳元旦

Phiên âm:

Làm ở trong quân

Bình sinh bất nguyện chấp kim ngô
Đàm tiếu du chàng Khởi viễn đồ
Duyệt mục phong quang hà xứ hữu
Khi thiên tâm thuật nhất sinh vô
Tam xuân đề huyết quyên thanh đoạn
Vạn lý quy tâm quế ảnh cô
Tọa đắc sư đồ ca tấu khải
Nam phong chẩm ngọc bạn thanh nô.
                                       Trần Nguyên Đán

Dịch nghĩa:

Xúc cảm khi ở trong quân

Bình sinh chẳng ham gì chức Chấp kim ngô
Cười nói trong tấm màn quang dầu đâu có phải là kế lo xa
Chỗ nào còn cảnh phong quang thích mắt
Đời ta không có lòng dối trời
Ba xuân rỏ máu tiếng quyên đã dứt
Muôn dặm lòng về bong trăng lẻ loi
Ngồi chờ quân lính hát khúc khải hoàn
Dưới cửa sổ phía nam đặt chiếc gối ngọc làm bạn với chiếc trúc

Dịch thơ:
1.
Quan sang ta có muốn đâu mà
Cười nói sau màn há tính xa
Thích mắt đâu còn vui cảnh đẹp
Thực lòng chẳng dám dối trời già
Ba xuân máu rỏ quyên đòi đọan
Muôn dặm lòng về nguyệt lửng lơ
Đợi khúc khải hoàn vang tiếng hát
Chiếu tre gối ngọc bạn trong nhà.
                            Hoàng Khuê dịch
2.
Lo xa chi chốn trướng quang dầu
Chức Chấp kim ngô chẳng muốn đâu
Nào chỗ phong quang nhìn mắt thích
Lòng đây không dám dối trời sâu
Ba xuân máu rỏ lời quyên gọi
Muôn dặm lòng về bóng quế đau
Ở lính ngồi chờ ngày xuất ngũ
Chiếu tre gối ngọc cửa nam chầu.
                        Đỗ Đình Tuân dịch

30.

化府道中

去年戎事在塵泥
吟筆今秋歸舊題
望雨遠看雲起北
感時頻顧火流西
宋江水狹波聲小
大利山空草色萋
愛埂風光非昔日
相逢訪古說丁黎
                陳元旦

Phiên âm:

Thanh hóa phủ đạo trung

Khứ niên nhung sự tại trần nê
Ngâm bút kim thu quy cựu đề
Vọng vũ viễn khan vân khởi bắc
Cảm thời tần cố hỏa lưu tê
Tống Giang thủy hiệp ba thanh tiểu
Đại Lợi sơn không thảo sắc thê
Ái cảnh phong quang phi tích nhật
Tương phùng phỏng cổ thuyết Đinh, Lê.
                                  Trần Nguyên Đán

Dịch nghĩa:

Trên đường phủ Thanh Hóa

Năm ngoái vì việc quân phải ở nơi bui này
Bút thơ thu nay lại trở về đề cũ
Mong mưa trông xa mây đùn lên phía bắc
Cảm thời tiết luôn ngoảnh nhín sao Hỏa chạy về tây
Mặt nước Tống Giang hẹp nhè nhẹ song reo
Dãy núi Đại Lợi quang xanh rờn cỏ mọc
Phong quang đất Ái không còn như xưa nữa
Gặp nhau thăm hỏi dấu xưa nói chuyện nhà Đinh nhà Lê

Dịch thơ:

Năm ngoái việc quân ở chốn này
Bút về đề cũ lại thu nay
Mong mưa ngóng gió mây đằng bắc
Cảm tiết nhìn sao Hỏa xuống tây
Sông hẹp Tống Giang con sóng nhỏ
Núi trơ Đại Lợi cỏ xanh dầy
Ái châu phong cảnh không như cũ
Gặp bạn Đinh Lê hỏi chuyện vầy.
                            Đỗ Đình Tuân dịch

31.

題譜賴山大明寺
用少保張公韻

塵起絲紛歲月流
飽帆風送倘來遊
鐘撞鯨吼天山動
塔湧鰲簪巨浪浮
關月塞煙悲客思
朝雲暮雨羨僧幽
平淮勲業鐫崖石
俯鑑清漪未白頭
                陳元旦

Phiên âm

Đề Phả Lại sơn Đại Minh tự
dụng Thiếu bảo Trương Công vận

Trần khởi ty phân tuế nguyệt lưu
Bão phàm phong tống thảng lai du
Chung chàng kình hống thiên sơn động
Tháp dũng ngao trâm cự lãng phù
Quan nguyệt tái yên bi khách tứ
Triêu vân mộ vũ tiện tăng u
Bình hoài công nghiệp thiên nhai thạch
Phủ giám thanh y vị bạch đầu.
                          Trần Nguyên Đán

Dịch nghĩa :

Dùng vần thơ của quan Thiếu bảo Trương Công
đề chùa Đại Minh ở núi Phả Lại

Bụi nổi tơ rối năm tháng trôi qua
Gió thổi buồm căng ngẫu nhiên có việc đi chơi
Chuông khua như tiếng cá kình rống nghìn núi rung động
Tháp nhô lên như con ngao cài trâm nổi cơn sóng lớn
Trăng cửa ải khói biên cương lòng khách u buồn
Mây buổi sớm mưa ban chiều hâm mộ cảnh thiền tịch mịch
Công nghiệp bình Hoài được khắc vào đá núi
Cũi soi làn nước trong thấy mình chưa bạc đầu.

Dịch thơ :
1.
Rối bời thời thế tháng năm nhanh
Buồm gió căng chơi bước dạo quanh
Kình rống hồi chuông non chuyển động
Ngao vớn ngọn tháp sóng rung rinh
Mưa chiều mây sớm sư thêm tĩnh
Khói tỏa trăng lu khách chạnh tình
Công trạng bình Hoài ghi vách đá
Cúi soi dòng biếc tóc còn xanh.
                           Đào Phương  Bình dịch

2.
Năm tháng vèo qua loạn rối tinh
Ngẫu nhiên buồm gió dạo chơi quanh
Chuông khua kình rống nghìn non động
Tháp đứng ngao nhô ngọn sóng dềnh
Biên ải gió trăng lòng tạnh vắng
Cửa thiền mưa nắng cảnh buồn tênh
Bình Hoài công nghiệp ghi bia đá
Dòng biếc nhìn coi tóc vẫn xanh.
                           Đỗ Đình Tuân dịch

32.

答粱江納言病中

南陆催纒歲不留
泠汀病骨隐輕裘
瀾歌罷談人苦
菊老梅新玩物尤
自笑浮沈無計術
何曾吐茹痛襟喉
依阿涉世徒为耳
白首宗臣不與謀
                陳元旦

Phiên âm :

Đáp Lương Giang
nạp ngôn bệnh trung

Nam lục thôi triền tuế bất lưu
Linh đinh bệnh cốt ẩn khinh cừu
Tửu lan ca bãi đàm thân khổ
Trúc vãn mai tân ngoạn vật vưu
Tự tiếu phù trầm vô kế thuật
Hà tằng thổ nhự thống khâm hầu
Y a thiệp thế đồ vi nhĩ
Bạch thủ tông thần bất dữ mưu.
                           Trần Nguyên Đán

Dịch nghĩa :

Trả lời quan nạp ngôn
Lương Giang trong khi ốm

Thời tiết chuyển nhanh năm tháng không dừng lại
Bộ xương ốm yếu lênh đênh dấu trong áo cừu nhẹ
Rượu tàn hát xong nói đến cái khổ của con người
Cúc già mai mới được thưởng thức vật hiếm
Tự cười mình chìm nổi chẳng có kế thuật gì
Chưa từng nhả nuốt bao giờ mà đau cuống họng ?
Dựa dẫm theo đời qua chuyện mà thôi
Bậc tông thần bạc đầu không được dự mưu.

Dịch thơ :
1
Năm tháng trôi hoài lắm đổi thay
Lênh đenh đau ốm tấm thân gầy
Rượu tàn hát cạn trò đời kể
Trúc cỗi mai tơ cảnh hiếm bày
Tự trách nổi chìm mưu chước vụng
Chưa từng nhả nuốt họng nhường cay
Theo đòi dựa dẫm cho qua chuyện
Tóc bạc tông nhân chịu bó tay.
                        Đào Phương Bình dịch

2.
Năm tháng không dừng tiết chuyển nhanh
Thân gầy bệnh dấu vẫn lênh đênh
Rượu tàn hát tận kêu người khổ
Mai mới cúc già thưởng vật thanh
Đời trải nổi chìm phương kế vụng
Miệng chưa nhả nuốt họng không lành
Theo thời dựa dẫm cho qua chuyện
Đầu bạc mưu cơ miễn dự bình.
                       Đỗ Đình Tuân dịch

20/3/2012
Đỗ Đình Tuân 







Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

ĐẾM TIỀN

Ông ngồi giương kính đếm tiền Đồng tiền mỏng thế mà liền với xương Tiền này là khoản tiền lương Là tiền năm tháng chiến trường cho ta ...