Thứ Sáu, 23 tháng 3, 2012

Dịch thơ cổ: Trần Nguyên Đán 10

46

奉賡御製黄梅即事

浮世年花摧白髮
故園松菊笑儒冠
鳳池此日無多事
坐看松陰轉畫欄
               陳元旦

Phiên âm:

Phụng canh chế ngự hoàng mai tức sự

Phù thế niên hoa thôi bạch phát
Cố viên tùng cúc tiếu nho quan
Phượng trì thử nhật vô đa sự
Tọa khan tùng âm chuyển họa lan.
                              Trần Nguyên Đán

Dịch nghĩa:

Kính họa bài thơ “Hoàng mai tức sự” của nhà vua

Cõi đời bồng bềnh năm tháng thôi thúc tóc bạc
Tùng cúc vườn xưa cười giễu mũ nhà nho
Ao Phượng Hoàng ngày nay không còn nhiều việc
Ngồi nhìn bong tùng nhích dần tới hàng lan can vẽ.

Dịch thơ:
1.
Năm tháng phù sinh dồn tóc bạc
Trúc thông vườn cũ giễu nhà nho
Hôm nay ao Phượng đà rỗi việc
Nhìn bóng tùng lăn dưới giậu tô.
                       Đào Phương Bình dịch

2.
Tóc xanh phù thế bạc rồi
Trúc thông vườn cũ nhạo cười mũ nho
Nay ngồi Ao Phượng nhàn chưa
Nhìn thông nhích bóng sang bờ lan can.
                                  Đỗ Đình Tuân dịch

47.

壬寅年六月作

年來夏旱又秋霖
禾稿苗傷害轉深
三萬卷書無用處
白頭空負愛民心
                陳元旦

Phiên âm:

Nhâm Dần niên lục nguyệt tác

Niên lai hạ hạn hựu thu thâm              
Hòa cảo miêu thương hại chuyển thâm
Tam vạn quyển thư vô dụng xứ
Bạch đầu không phụ ái dân tâm
                           Trần Nguyên Đán

Dịch nghĩa:

Thơ làm vào tháng sáu năm Nhâm Dần (1362)

Năm nay mùa hè bị hạn mùa thu lại bị lụt
Lúa khô mạ thối tai hại càng nhiều
Đọc ba vạn cuốn sách mà thành vô dụng
Bạc đầu luống phụ lòng thương dân.

Dịch thơ:
1
Năm nay hạ hạn lại thu mưa
Đau nỗi mùa màng những thiệt thua
Ba vạn sách dầy đành xếp xó
Yêu dân còn nợ mái đầu phơ.
                      Trần Lê Sáng dịch

2.
Năm nay hạ hạn thu mưa
Lúa khô mạ thối thiệt thua đủ điều
Ích chi đâu đọc sách nhiều
“Yêu dân” gánh nợ còn đeo suốt đời.
                        Đỗ Đình Tuân dịch

48.

戊申正月作

三分頭白寸心丹
世上紛紛萬事難
自笑不如前若
年纔四十便休官
                陳元旦

Phiên âm:

Mậu Thân chính nguyệt tác

Tam phân đầu bạch thốn tâm đan
Thế thượng phân phân vạn sự nan
Bạch tiếu bất như tiền nhược thủy
Niên tài tứ thập tiện hưu quan.
                          Trần Nguyên Đán

Dịch nghĩa:

Thơ làm vào tháng giêng năm Mậu Thân (1368)

Ba phần tóc trên đầu đã bạc vẫn một tấm lòng son
Sự đời bối rối muôn việc khó khăn
Tự cười mình không bằng ông Tiền Nhược Thủy
Tuổi mới bốn mươi đã cáo quan về hưu.

Dịch thơ:
1.
Ba phần tóc bạc tấc lòng son
Đường thế gian nan bước cũng chồn
Tự giễu không như Tiền Nhược Thủy
Tuổi vừa bốn chục đã hưu quan.
                            Đào Phương Bình dịch

2.
Lòng son tóc bạc mấy phần
Sự đời bối rối khó khăn muôn nghìn
Tự cười ta kém ông Tiền
Bốn mươi tuổi đã điền viên lui về.
                           Đỗ Đình Tuân dịch

49.

夜歸舟中作

萬國民生沸鼎魚
朔燕東汴已丘墟
歸舟未稳江湖夢
分取魚燈照古書
                陳元旦

Phiên âm:

Dạ quy chu trung tác

Vạn quốc dân sinh phí đỉnh ngư
Sóc yên đông Biện dĩ khâu khư
Quy chu vị ổn giang hồ mộng
Phân thủ ngư đăng chiếu cổ thư
                              Trần Nguyên Đán

Dịch nghĩa:

Thơ làm trong lúc đi thuyền về

Nhân dân muôn nước như cá trong vạc nước sôi
Đất Yên phương bắc đất Biện phương dôngđã thành gò đống
Trên chiếc thuyền về chưa yên giấc mộng giang hồ
Mượn ánh đèn thuyền chài soi đọc cuốn sách cổ.

Dịch thơ:
1.
Muôn nước dân sinh cá vạc sôi
Biện đông Yên bắc tả tơi rồi
Thuyền về trằn trọc không yên giấc
Mượn ánh đèn chài mở sách coi.
                  Hoàng Việt thi tuyển dịch

2.
Muôn dân trong vạc dầu sôi
Yên đông Biện bắc thành nơi núi gò
Ta chưa yên mộng giang hồ
Đèn chài đọc cuốn sách xưa trên thuyền.
                           Đỗ Đình Tuân dịch

50.

夜深偶作

商風夜靜轉飕飕
一點殘燈相對愁
心緒好隨吟裏靜
塵緣須向睡中休
                陳元旦

Phiên âm:

Dạ thâm ngẫu tác

Thương phong dạ tĩnh chuyển sưu sưu
Nhất điểm tàn đăng tương đối sầu
Tâm tự hảo tùy ngâm lý tĩnh
Trần duyên tu hướng thụy trung hưu.
                                 Trần Nguyên Đán

Dịch nghĩa:

Thơ làm lúc đêm khuya

Gió thu trong đêm vắng thổi vi vu
Buồn bã ngồi trước ngọn đèn tàn
Lòng cũng nguôi nguôi trong lúc ngâm nga
Duyên nợ cuộc đời ngủ đi là xong hết.

Dịch thơ:
1.
Đêm tĩnh rì rào ngọn gió thâu
Đèn khuya le lói luống khêu sầu
Ngâm thơ muốn để lòng yên lặng
Đánh giấc trần duyên bận nữa đâu.
                         Đào Phương Bình dịch

2.
Đêm thu vắng gió vi vu
Đèn tàn một ngọn tâm tư thêm buồn
Ngâm nga thấy dịu trong hồn
Ngủ đi là hết đâu còn trần duyên.
                           Đỗ Đình Tuân dịch

51.

不寐

官舍秋霜瘺轉遲
故園松菊在天涯
目前盡是心事
病愈不如猶病時
                陳元旦

Phiên âm:

Bất mị

Chốn quan xá trong sương thu giọt đồng hồ nhỏ chậm
Tùng cúc trong vườn cũ ở tận chân trời xa
Trước mắt toàn là những việc phải quan tâm
Bệnh khỏi không bằng khi còn bệnh.

Dịch thơ:
1.
Quan xá sương thu chậm khắc canh
Cúc túng vườn cũ góc trời xanh
Ngó ra rảnh việc lòng đeo đuổi
Thà bệnh còn hơn lúc bệnh lành.
                        Hoàng Việt thi tuyển dịch

2.
Sương thu thánh thót chậm rơi
Cúc tùng vườn cũ góc trời phương xa
Bộn bề công việc quốc gia
Bệnh mang lại thấy hơn là bệnh lui.
                            Đỗ Đình Tuân dịch

(Dịch xong thơ Trần Nguyên Đán vào lúc 20 giờ 7 phút ngày 23/3/2012)

23/3/2012
Đỗ Đình Tuân

                                                                                                              



Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

ĐẾM TIỀN

Ông ngồi giương kính đếm tiền Đồng tiền mỏng thế mà liền với xương Tiền này là khoản tiền lương Là tiền năm tháng chiến trường cho ta ...