Thứ Bảy, 17 tháng 3, 2012

Dịch thơ cổ: Trần Nguyên Đán 4

11.

九月有人來
訪同作

戟下髯奴掣警鈴  
出門喜接子衿青
自娱顧托花迷院
習静時觀草滿廷
愽帯寬衣身已老
高車駟馬夢初醒
一杯强醉酬佳節
不管蒹葭白路零
                陳元旦
                             
Phiên âm:

Cửu nguyệt hữu nhân lai
Phỏng đồng tác

Kích hạ nhiêm nô xiết cảnh linh
Xuất môn hỉ tiếp tử khâm thanh
Tự ngu cố thác hoa mê viện
Tập tĩnh thời quan thảo mãn đình
Bác đới khoan y thân dĩ lão
Cao xa tứ mã mộng sơ tinh
Nhất bôi cưỡng túy thù giai tiết
Bất quản kiêm hà bạch lộ linh
                             Trần Nguyên Đán

Dịch nghĩa:

Tháng chín có người đến thăm cùng làm thơ

Dưới cửa kích người gia nô rậm râu giật chuông báo hiệu
Ra cửa mừng đón người khách mặc áo xanh
Vui ngắm cảnh hoa đầy cả viện
Quen yên tĩnh thường xem cây cỏ đầy sân
Mang đai rộng áo chùng hợp với cảnh thân đã già
Xe cao ngựa tứ giấc mộng vừa tỉnh
Một chén gượng say để dáp lại tiết vui
Chẳng ngại gì lau sậy có móc trắng rơi.

Dịch thơ:
1.
Ngoài cửa quân hầu báo hiệu chuông
Trước hiên mừng đón khách văn chương
Vui nhìn khắp viện hoa tươi khóm
Lặng ngắm đầy sân cỏ mượt hàng
Đai áo thêng thang làn tóc bạc
Ngựa xe nghễu nghện giấc kê vàng
Chén đến tiết đẹp nâng say gượng
Lau sậy nề  chi đượm móc sương.
                          Nguyễn Xuân Tảo dịch

2.
Nô già báo khách lại chơi
Vội mừng ra cửa tiếp người áo xanh
Hoa vườn cùng ngắm nhìn quanh
Đầy sân cây cỏ thường mình vẫn quen
Già ưa đai rộng áo mềm
Xe cao ngựa tứ vừa quên mới rồi
Gượng say đáp lại tiết vui
Ngoài kia lau sậy sương rơi trắng cành.
                                    Đỗ Đình Tuân dịch

12.

贈朱樵隐

黼冕桓圭心已灰
風霜安敢閉寒梅
白雲高壘山屝掩
紫陌多歧我馬隤
蕙帐忽驚孤鶴怨
蒲輪好为下民回
昌期社稷天方作
肯使先生老碧隈
                陳元旦

Phiên âm

Tặng Chu Tiều Ẩn

Phủ miện hoàn khuê tâm dĩ hôi
Phong sương an cảm bế hàn mai
Bạch vân cao lũy sơn phi yểm
Tử mạch đa kỳ ngã mã đồi
Huệ trướng hốt kinh cô hạc oán
Bồ luân hảo vịhạ dân hồi
Xương kỳ xã tắc thiên phương tác
Khẳng sử tiên sinh lão bích ôi.
                        Trần Nguyên Đán

Dịch Nghĩa:

Tặng Chu Tiều Ẩn

Nói chuyện áo gấm mũ thêu và ngọc hoàn khuê lòng đã nguội nhu tro
Gió sương đâu dám giam cầm cây mai lạnh
Mây trằng chồng cao cửa non khép kín
Đường tía nhiều ngả ngựa ta đã mỏi
Trong trường huệ chớ sợ chim hác cô đơn oán giận
Bánh xe cỏ bồ hãy vì dân mà quay trở lại
Xã tắc đang hồi thịnh trời cũng giúp vì
Đâu chịu để tiên sinh già đi ở chốn non xanh.

Dịch thơ:

Áo mũ ngọc châu đã miễn bàn
Phong sương không hãm được mai hàn
Chồng cao mây trắng non cài cửa
Lắm ngả đường đời ngựa mỏi chân
Hạc oán chớ lo trong trướng huệ
Bồ luân quay bánh hãy vì dân
Đương hồi thịnh trị trời mong giúp
Sao nỡ ở rừng hết tuổi xuân.
                        Đỗ Đình Tuân dịch

13.

賀樵隐朱先生
拜國子司業

学海迴瀾俗再醇
上庠山斗得斯人
窮經愽史工夫大
敬老崇儒政 
韈杗鞋歸永日
青頭白髮浴沂春
勲華只是垂裳治
爭得巢由作内臣
                陳元旦

Phiên âm:

Hạ Tiều Ẩn Chu tiên sinh
Bái Quốc tử tư nghiệp

Học hải hồi lan tục tái thuần
Thượng tường Sơn Đẩu đắc tư nhân
Cùng kinh bác sử công phu đại
Kính lão sung nho chính hóa tân
Bố miệt mang hài quy vĩnh nhật
Thanh đầu bạch phát dục nghi xuân
Huân hoa chỉ thị thùy thường trị
Tranh đắc Sào Do tác nội thần.
                         Trần Nguyên Đán

Dịch nghĩa:

Mừng ông Chu Tiều Ẩn được bổ chức
Tư nghiệp ở Quốc tử giám.

Xoay làn song biển học làm cho phong tục lại được thuần hậu
Nhà trường đã được bậc đạo đức như Thái Sơn, Bắc Đẩu đến dạy
Đọc hết kinh xem rộng sử công phu rất lớn
Kính đạo Lão sung đạo Nho chính sự và giáo hóa được đổi mới
Ngày ông mang tất vải giầy cỏ vừa đi vừa hát mà về
Người trẻ người già cùng tắm trong mùa xuân sông Nghi
Các vua Phòng Huân và Trùng Hoa chỉ ngồi rủ xiêm trị nước
Bởi có ông Sào ông Do làm bề tôi trong triều.

Dịch thơ:
1.
Thói thuần biển học sóng tài xoay
Sơn Đẩu trường cao được đón thày
Rộng sử thông kinh công dụng lớn
Sùng Nho kính Lão kỷ cương hay
Ngày về núi cũ hài rơm bước
Xuân tắm dòng Nghi tóc trằng bay
Nghiêu Thuấn rủ xiêm thành thịnh trị
Sào Do đâu có chịu rat ay.
                         Đào Phương Bình dịch

2.
Xoay biển học cải tục thuần
Nhà trường đón được kỳ nhân trở về
Thông kinh bác sử ai bì
Sùng Nho kính Lão mọi bề canh tân
Ông về hài cỏ đẹp chân
Trẻ già tắm nước Nghi xuân thỏa lòng
Nhà vua rủ áo thong dong
Có Sào-Do sẵn góp công trị vì.
                          Đỗ Đình Tuân dịch


14.

赓同知府右司
梅峰黎公韻

年逾五十半衰翁
涉世何顏入閙叢
珥水夜寒千古月
丘鄕晝静一溪風
忘身福心無患
與國安危位得中
朝罷喚茶煎俗慮
閒披螙簡訓童蒙
                陳元旦

Phiên âm:

Canh đồng tri phủ hữu ty
Mai Phong Lê công vận

Niên du ngũ thập bán suy ông
Thiệp thế hà nhan nhập náo tùng
Nhị thủy dạ hàn thiên cổ nguyệt
Khâu hương trú tĩnh nhất khê phong
Vong thân họa phúc tâm vô hoạn
Dữ quốc an nguy vị đắc trung
Triều bãi hoán trà tiên tục lự
Nhàn phi đố giản huấn đồng mông.
                            Trần Nguyên Đán

Dịch nghĩa:

Họa vần thơ của ông
Tri phủ hữu ty Lê Mai Phong

Ông tuổi ngoại năm mươi không còn được khỏe nữa
Việc đời đã trải còn mặt nào chen vào chốn ồn ào
Đêm lạnh lung trên sông Nhị cùng với mảnh trăng thiên cổ
Ngày lặng lẽ ở nơi xóm nhỏ nghe gió từ suối thổi đến
Quên họa phúc của mình chẳng cần lo lắng gì
Chung yên nguy với nước đã có địa vị phải chăng
Đi chầu về gọi trà để xua đuổi nỗi lo trần tục
Ung dung mở cuốn sách mọt dạy lũ trẻ thơ.

Dịch thơ:
1.
Năm mươi sức lão yếu rồi
Việc đời đã trải chán nơi ồn ào
Lạnh lung sông Nhị trăng cao
Yên thân xóm nhỏ gió vào suối trong
Rủi may chẳng chút bận lòng
Yên vui với nước cùng trong chức này
Tan chầu mượn chén trà khuây
Mở trang sách mọt dạy bầy trẻ thơ.
                                Trần Lê Sáng dịch
2.
Tuổi ngoại năm mươi sức kém bền
Trải đời nên ngại chốn đua chen
Nhị Hà đêm lạnh vầng trăng tỏ
Xóm vắng ngày im gió suối lên
Chẳng bận riêng tư điều họa phúc
Cùng chung đất nước lúc nguy yên
Thôi chầu mượn chén trà khuây khỏa
Mở sách tàn ra dạy thiếu niên.
                         Đỗ Đình Tuân dịch

15.

秋日

臨流茅舍板屝扃
小圃秋深兴轉清
梅早匊芳賢子弟
松苍竹瘦老公卿
樹喧風怒心難動
雲盡天高眼自明
西望煙花非昔日
鱸思遠不禁情
               陳元旦

Phiên âm:

Thu nhật

Lâm lưu mao xá bản phi quynh
Tiểu phố thu thâm hứng chuyển thanh
Mai thảo cúc phương hiền tử đệ
Tùng thương trúc sấu lão công khanh
Thụ huyên phong nộ tâm nan động
Vân tận thiên cao nhãn tự minh
Tây vọng yên hoa phi tích nhật
Thuần lô tứ viễn bất câm tình.
                           Trần Nguyên Đán

Dịch nghĩa:

Ngày thu

Ngôi nhà tranh bên sông khép cánh cửa ván
Trong vườn nhỏ giữa mùa thucảm thấy rất thanh thú
Mai nở sớm cúc đưa hương các đệ tử đều là người hiền
Thông xanh trúc gầy giống như người công khanh già
Cây rộn gió gào lòng không lay động
Trời cao mây tânhj mắt ta sáng sủa
Trông về tây cảnh yên hoa đã khác xưa
Rau tần cá vược nghĩ xa xôi mối tình khôn xiết.

Dịch thơ:
1.
Nhà cỏ cài then đứng mé sông
Vườn thu trong trẻo hứng mênh mông
Con em tài tuấn dường mai cúc
Khanh tướng già nua tựa trúc thông
Cây rộn gió gào lòng vẫn vững
Mây quang trời bổng mắt thêm trong
Phồn hoa ngoảnh lại xa ngày trước
Vược cá thuần rau vướng nỗi lòng.
                             Đào Phương Bình dịch

2.
Bên sông nhà ghép ván quanh
Ngày thu vườn nhỏ thú thanh thản lòng
Cúc mai đệ tử vui cùng
Trúc gầy thông biếc làm công khanh già
Trời trong cho mắt sáng ra
Gió gào cây rộn lòng ta vững bền
Phồn hoa ngoảnh lại nhìn xem
Rau thuần cá vược nỗi niềm mang mang.
                                     Đỗ Đình Tuân dịch

18/3/2012
Đỗ Đình Tuân


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

ĐẾM TIỀN

Ông ngồi giương kính đếm tiền Đồng tiền mỏng thế mà liền với xương Tiền này là khoản tiền lương Là tiền năm tháng chiến trường cho ta ...