Thứ Năm, 22 tháng 3, 2012

Dịch thơ cổ: Trần Nguyên Đán 9

41.

和洪洲檢正韻

送雨輕陰滿客途
彊酬佳韻詠風雩
春光野寺花千樹
世味村墟酒一壺
白屋青燈空負汝
紫垣黃閣苦留吾
安民細物諸公事
澤畔行吟莫自孤
                陳元旦

Phiên âm:

Họa Hồng Châu kiểm chính vận

Tống vũ khinh âmmãn khách đồ
Cưỡng thù giai vận vịnh phong vu
Xuân quang dã tự hoa thiên thụ
Thế vị thôn khư tửu nhất hồ
Bạch ốc phong đăng không phụ nhữ
Tử viên hoàng các khổ lưu ngô
An dân tế vâth chu công sự
Trạch bạn hành ngâm mạc tự cô.
                          Trần Nguyên Đán

Dịch nghĩa:

Họa bài thơ của viên kiểm chính ở Hồng Châu

Đầy đường đất khách bóng râm nhẹ đưa mưa
Cố sức họa vần bài thơ vịnh cảnh “Phong Vu”
Trong ngôi chùa nơi thôn dã ngàn cây nở hoa dưới ánh xuân
Trên nền cũ trong làng một hồ rượu đậm mùi thế tục
Nhà trắng đèn xanh tự buộc người vào
Tường tía gác vàng cố giữ ta lại
Yên dân giúp đời sự nghiệp của các người
Lang thang ca hát bên chằmđừng cho mình là lẻ loi.

Dịch thơ:
1.
Bong tối đem mưa khắp mọi nơi
Phong vu gắng họa vận thơ chơi
Chùa thôn xuân đẹp hoa nghìn khóm
Nền xóm đời vui rượu một chai
Nhà trắng đèn xanh người buộc mãi
Gác vàng nhà tía lão lưu hoài
Giúp đời các vị chăm lo lấy
Ngâm vịnh bên chằm há lẻ loi.
                         Nguyễn Đức Vân dịch

2.
Chật đường mây nhẹ đẩy cơn mưa
Bài vịnh “Phong vu” gắng họa thơ
Hoa đẹp chùa quê nghìn khóm nở
Nền xưa rượu tục một bình đưa
Đèn xanh nhà trắng ai  giam buộc
Gác tía lầu vàng  lão cố ưa
Sự nghiệp yên dân người  tự liệu
Bên chằm riêng hát  chẳng bơ vơ .
                          Đỗ Đình Tuân dịch

42.

奉賡太宗政平章韻

老饜繁華漢富平
春心奇傲曉窗明
蒿倚竹一般色 
煙樹隔江無限情
雲氣往來天大小 
陽光旦暮物枯榮
安閒世故多疎懶
偃却胸中十萬兵
                陳元旦

Phiên âm:

Phụng canh Thái Tông Chính Bình chương vận

Lão yếm phồn hoa Hán Phí Bình
Xuân tâm ký ngạo hiểu song minh
Dã cao ỷ trúc nhất ban sắc
Yên thụ cách giang vô hạn tình
Vân khí vãng lai thiên đại tiểu
Dương quang đán mộvật khô vinh
An nhàn thế cố đa sơ lãn
Yển khước hung trung thập vạn binh
                                   Trần Nguyên Đán


Dịch nghĩa:

Kính họa vần bài thơ năm Chính Bình của Thái Tông

Phú Bình đời Hán lúc về già cũng chán cảnh phồn hoa
Đem lòng xuân gửi vào sự cười cợt với ánh sáng cửa sổ lúc ban mai
Cỏ nội dựa bên khóm trúc mầu sắc như nhau
Cây lòng khói bên kia sông mối tình dào dạt
Hơi mây vất vưởng bầu trời khi lớn khi nhỏ
Mặt trời khi sớm khi tối  cảnh vật khi héo khi tươi
Quen an nhàn biếng nghĩ đến biến cố ở đời
Chục vạn quân chứa trong lòng đành dẹp lại.

Dịch thơ:
1.
Già chán phồn hoa cảnh Phú Bình
Song mai cưởi gửi chỉ bình sinh
Cỏ chen khóm trúc cùng chung sắc
Cây cách dòng sông biết mấy tình
Qua lại mây bay trời lớn nhỏ
Sớm chiều nắng dọi vật khô vinh
An nhàn quen thói sinh lười biếng
Dẹp hết trong lòng chục vạn binh.
                               Đào Phương Bình dịch

2.
Phú Bình già chán phồn hoa
Đem lòng vui với cửa nhà nắng mai
Cỏ gần trúc khó phân hai
Cách sông cây khói làm ai xao lòng
Trời to nhỏ tại mây lồng
Vật tươi khô bởi nắng hồng hôm mai
An nhàn lâu cũng sinh lười
Lòng như quân chục vạn người cũng tan.
                                 Đỗ Đình Tuân dịch

43.

賡新平安撫
范公師孟平書事韻

志士寜辭蹈海危
高歌长嘯任天倪
霜差暑笠酬明主
虎落蛇區慰遠黎
日月盈虧人易見
贤愚窮達物難齊
皆期久隔天涯望
賦罷停雲月欲西
                陳元旦

Phiên âm:

Canh tân bình an phủ
Phạm Công  Sư Mạnh bình thư sự vận

Chí sĩ ninh từ đạo hải nguy
Cao ca trường khiếu nhậm thiên nghê
Sương soa thử lạp thù minh chúa
Hổ lạc xà khu úy viễn lê
Nhật nguyệt doanh khuy nhân dị kiến
Hiền ngu cùng đạt vật nan tề
Giai kỳ cửu cách thiên nhai vọng
Phú bãi ”Đình vân” nguyệt dục tê.
                              Trần Nguyên Đán

Dịch nghĩa:

Họa vần bài thơ “Tân bình thư sự”
của quan an phủ xứ trấn Tân Bình Phạm Sư Mạnh

Người chí sĩ đâu chịu chối từ cái nguy vượt biển
Cất cao tiếng hát với tất cả lòng mình
Mang tơi sương đội nón nắng đền đáp minh chúa
Vào hang hùm tới ổ rắn yên ủi dân xa
Mặt trời mặt trăng khi tròn khi khuyết người đời dễ thấy
Người hiền người ngu khi cùng khi đạt nhân vật khó đều
Hẹn đẹp từ lâu trông vời chân trời xa cách
Làm xong vần thơ “Đình vân” trăng đã xế tây.

Dịch thơ:
1.
Vượt biển nguy nan chí dám đương
Hò vang hát lớn giữa trời quang
Đội sương tắm nắng đền ơn chúa
Sục ổ lần hang vỗ viễn phương
Nhật nguyệt đầy vơi người dễ thấy
Hiền ngu cùng đạt vật khôn ngang
Chân trời xa thắm mong ngày hẹn
Hát trọn “Đình vân” thỏ ngậm gương.
                              Đào Phương Bình dịch

2.
Chí sĩ ngại gì sóng biển xa
Thỏa lòng thét lớn lại to ca
Tơi sương nón nắng đền ơn chúa
Miệng rắn hang hùm báo quốc gia
Nhật nguyệt khuyết tròn còn dễ thấy
Hiền ngu cùng đạt khó nhìn ra
Phương trời xa cách trông tin nhạn
Xong khúc “Đình vân” nguyệt đã tà.
                              Đỗ Đình Tuân dịch

44

儩進士

聖主求贤闢禮圍
欣瞻群鳳九
名題玉闕懸金榜
馬躍花衢拂錦衣
老懶放予歸綠野
謀謨待汝入黄屝
生指日當蘇息
邊塞無塵獄訟稀
                 陳元旦

Phiên âm:

Tứ tiến sĩ

Thánh chủ cầu hiền tịch lễ vi
Hân chiêm quần phượng cửu tiêu phi
Danh đề ngọc khuyết huyền kim bảng
Mã dược hoa cù phất cẩm y
Lão lán phóng dư quy lục dã
Mưu mô đãi nhữ nhập hoàng phi
Thương sinh chỉ nhật đương tô tức
Biên tái vô trần ngục tụng hy.
                         Trần Nguyên Đán

Dịch nghĩa:

Tặng tiến sĩ

Vua thánh cầu hiền nên mở khoa thi
Mừng được xem bầy chim phượng bay lên chín tầng mây
Bảng vàng đề tên treo trước cửa khuyết
Đường hoa ngựa ruổi áo gấm phất phơ
Già nua biếng nhác ta được thả về nhà Lục Dã
Mưu lược lo toan người chờ bước vào cửa vàng
Chẳng bao lâu nữa dân được nghỉ ngơi
Nơi biên thùy ít giặc việc kiện tụng cũng ít


Dịch thơ:
1.
Khoa thi vua mở kén hiền lương
Bay chín tầng mây cánh phượng hoàng
Cửa khuyết bảng vàng tên rõ nét
Đường hoa áo gẫm ngựa rong cương
Yếu lười thả tớ về đồng biếc
Tài cán mong ngươi đến cửa vàng
Chả mấy lúc mà dân được nghỉ
Bụi tan biên tái rảnh công đường.
                    Đào Phương Bình dịch

2.
Thánh chúa cầu hiền mở khóa này
Mừng xem đàn phượng vút tầng mây
Bảng vàng cửa khuyết tên ghi rõ
Ngựa ruổi đường hoa áo gấm bay
Lục dã ta về yên tuổi hạc
Nhà vàng ngươi đến góp chung tay
Những mong sớm thấy dân vui hưởng
Biên ải bình yên kiện ít gây.
                     Đỗ Đình Tuân dịch

45.

題玄天觀

白日升天易
致君堯舜難
塵埃六十載
回首愧黄冠
        陳元旦

Phiên âm:

Đề Huyền Thiên quán

Bạch nhật thăng thiên dị
Trí quân Nghiêu Thuấn nan
Trần ai lục thập tải
Hồi thủ quý hoàng quan.
              Trần Nguyên Đán

Dịch nghĩa:

Đề quán Huyền Thiên

Ban ngày bay lên trời còn dễ
Giúp vua để dược như Nghiêu Thuấn mới khó
Sáu mươi năm sống trong cõi trần
Ngoảnh lại luống thẹn với người đội mũ vàng.

Dịch thơ:
1
Lên trời còn sự dễ
Giúp chúa thực điều gay
Sáu chục năm lẩn thẩn
Trong người hổ thẹn thay.
             Hoàng Việt thi tuyển dịch

2.
Ban ngày lên trời dễ
Giúp vua Nghiêu Thuấn khó
Sáu chục năm quay về
Thấy mũ vàng xấu hổ.
              Đỗ Đình Tuân dịch

23/3/2012
Đỗ Đình Tuân

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

ĐẾM TIỀN

Ông ngồi giương kính đếm tiền Đồng tiền mỏng thế mà liền với xương Tiền này là khoản tiền lương Là tiền năm tháng chiến trường cho ta ...