Chủ Nhật, 18 tháng 3, 2012

Dịch thơ cổ: Trần Nguyên Đán 5

16.

東潮秋泛

二老蕭蕭兩鬓斑
同舟對酒趂龍顏
海門東下千流急
天宇秋高一鳥還
觸景莫愁今古變
浮家自歎險夷間
汨羅赤壁皆塵土
早晚歸帆訪故山
                陳元旦
               
Phiên âm:

Đông Triều thu phiếm

Nhị lão tiêu tiêu lưỡng mấn ban
Đồng chu đối tửu sấn long nhan
Hải môn đông hạ thiên lưu cấp
Thiên vũ thu cao nhất điểu hoàn
Xúc cảnh mạc sầu thiên cổ biến
Phù gia tự thán hiểm di gian
Mịch La Xích Bích giai trần thổ
Tảo vãn quy phàm phỏng cố san.
                              Trần Nguyên Đán

Dịch nghĩa:

Mùa thu thả thuyền ra chơi ở Đông Triều

Hai ông già hom hem mái tóc hoa râm
Cùng ngồi thuyền uống rượu kíp vào chầu vua
Nước triều ở cửa biển rút về phía đông như ngàn dòng nước chảy xiết
Trời thu lồng lộng một con chim bay về
Xúc cảnh nhưng đừng buồn vì sự biến đổi xưa nay
Trên chiếc thuyền lênh đênh than mình khi bằng phẳng lúc hiểm nghèo
Mịch La Xích bích đều đã vùi trong gió bụi
Sớm muộn sẽ quay thuyền về hỏi thăm non xưa.

Dịch thơ:

Hai lão hom hem tóc trắng mây
Đáp thuyền uống rượu gặp vua đây
Biển xa triều xuống ngàn dòng xiết
Trời rộng thu cao một cánh bay
Xúc cảnh chớ buồn đời biến cải
Nổi lênh sá kể sự kia này
Mịch La Xích Bích chôn vùi cả
Sớm muộn quay thuyền núi cũ vay.
                           Đỗ Đình Tuân dịch

17.

題月澗道籙
太極之觀妙堂

門外谁家車馬喧
試將此理問苍天
桃黎春盡芳心歇
松菊秋深晚節全
一點丹誠生若死
幾回鶴化白为玄
瀛洲蓬島知何在
無欲無貪我是仙
                陳元旦

Phiên âm:

Đề nguyệt giản đạo lục
thái cực chi quan diệu đường

Môn ngoại thùy gia xa mã huyên
Thí tương thử lý vẫn thương thiên
Đào lê xuân tận phương tâm yết
Tùng cúc thu thâm vãn tiết tuyền
Nhất điểm đan thành sinh nhược tử
Kỷ hồi hạc hóa bạch vi huyền
Doanh Châu Bồng Đảo tri hà tại
Vô dục vô tham ngã thị tiên.
                          Trần Nguyên Đán

Dịch nghĩa:

Đề nhà quan diệu
của đạo lục thái cực ở Nguyệt Giản

Ngoài cửa xe ngựa nhà ai rộn rã
Thử đem cái lẽ ấy mà hỏi trời xanh
Đào và lê khi hết mùa xuân thì lòng thơm cũng hết
Thông với cúc đến giữa mùa thu khí tiết muộn mằn vẫn còn trọn vẹn
Một tấm lòng son sống cũng như chết
Mấy lần chim hạc hóa trắng lại thành đen
Doanh Châu Bồng Đảo biết là ở đâu
Không ham muốn không tham lam ta là tiên.

Dịch thơ:
1.
Xe ngựa nhà ai trước cửa chen
Thử đem lẽ ấy hỏi tầng trên
Đào lê xuân hết lòng thơm dứt
Tùng cúc thu cao tiết tháo tuyền
Một tấm lòng son sinh giống tử
Mấy hồi hạc hóa trắng làm đen
Bồng Doanh ai biết nơi đâu tá
Danh lợi màng chi tớ cũng tiên.
                         Nguyễn Đức Vân dịch

2.
Xe ngựa nhà ai rộn cửa bên
Thử đem lẽ ấy hỏi trời xem
Đào lê xuân hết lòng thơm hết
Tùng cúc thu tàn tiết vẫn nguyên
Một tấm lòng son sinh giống tử
Mấy lần hạc hóa trắng thành đen
Doanh Châu Bồng Đảo nơi đâu vậy
Không muốn không tham ta cũng tiên.
                              Đỗ Đình Tuân dịch

18.

老來

老來萬事付悠然
待瘺霜靴亦可憐
秋晚魚蝦思海上
家貧兒女樂燈前
塵迷病眼書難讀
酒滯愁腸夜不眠
不学五陵年少氣
夢間勁弩響空絃
                陳元旦

Phiên âm:

Lão lai

Lão lai vạn sự phó du nhiên
Đãi lậu sương ngoa diệc khả liên
Thu vãn ngư hà tư hải thượng
Gia bần nhi nữ lạc đăng tiền
Trần mê bệnh nhẫn thư nan độc
Tửu trệ sầu tràng dạ bất miên
Bất học Ngũ Lăng niên thiếu khí
Mộng gian kính nỗ hưởng không huyền.
                                Trần Nguyên Đán

Dịch nghĩa :

Già đến

Già rồi muôn việc phó mặc thời gian dài dằng dặc
Đôi giầy đi sương chờ buổi vào chầu cũng đáng thương
Cuối thu tôm cá nhớ biển cả
Nhà nghèo con cái vui cảnh trước đèn
Bụi làm mắt đau khó đọc sách
Rượu đọng trong dạ sầu đêm không ngủ được
Chẳng học kiểu cách bọn thiếu niên ở Ngũ Lăng
Trong giấc mơ nghe tiếng nỏ cứng vang tiếng dây không.

Dịch thơ :

Tuổi già mọi việc mặc vô biên
Giầy dẫm sương đêm tủi phận hèn
Thu hết cá tôm thường nhớ biển
Nhà nghèo con cái dỡn bên đèn
Bụi làm đau mắt văn khôn đọc
Rượu khiến sầu lòng ngủ khó yên
Chẳng học Ngũ Lăng phường tuổi trẻ
Mộng nghe nỏ cứng bật không tên.
                               Đỗ Đình Tuân dịch

19.

梅村提刑以城南
對菊之作見示乃次其韻

乾坤肅氣與良能
傲盡霜威與雪凌
客有賦詩清似玉
門無送酒寂如僧
山空水淺愁仍舊
竹瘦松苍喜得朋
莫怪寒英开太晚
繁花無處著名稱
               陳元旦


Phiên âm :

Mai thôn đề hình « thành nam đối cúc »
chi tác kiến thị, nãi thứ kỳ vận

Càn khôn túc khí dữ lương năng
Ngạo tận sương uy dữ tuyết lăng
Khách hữu phú thi thanh tự ngọc
Môn vô tống tửu tịch như tăng
Sơn không thủy thiển sầu nhưng cựu
Trúc sấu tùng thương thủy đắc bằng
Mạc quái hàn anh khai thái vãn
Phồn hoa vô xứ trứ danh  xưng.
                           Trần Nguyên Đán

Dịch nghĩa :

Quan đề hình Mai thôn cho xem bài thơ
« Ngắm cúc thành Nam » nhân họa theo vần

Hoa cúc là khí mạnh và tài năng của trời đất
Coi thường cả uy của sương và sự lấn của tuyết
Khách có kẻ ngâm thơ trong tựa hạt ngọc
Cửa không người mời rượu lặng lẽ như nhà sư
Núi tróc nước cạn mối sầu vẫn như cũ
Trúc gầy thông xanh mừng được bạn bầu
Dừng trách cái tinh hoa của mùa lạnh nở quá muộn
Vì chốn phồn hoa không phải là chỗ nổi tiếng của hoa này.

Dịch thơ :
1.
Bông hoa có đúc khí đất trời
Kkhinh cả sương sa lẫn tuyết rơi
Tựa ngọc ngâm vang thơ khách họa
Như chùa vắng lặng rượu ai mời
Núi trơ nước cạn tình như cũ
Thông cỗi trúc gầy bạn vẫn xưa
Chớ trách đông về hoa nở muộn
Phồn hoa chốn ấy chẳng quen chơi.
                            Trần Lê Sáng dịch
2.
Ngạo cả sương uy cả tuyết băng
Trời cho cúc mạnh lắm tài năng
Khách thơ từng viết trong như ngọc
Cửa rượu không mời lặng giống tăng
Nước cạn núi trơ sầu vẫn vậy
Trúc gầy thông biếc ấy thân bằng
Trách chi đẹp lạnh đơm bông muộn
Tránh chỗ sang giầu chẳng nói năng.
                            Đỗ Đình Tuân dịch

20.

賀介軒公除攝右僕射

璣衡炳炳岱崔傀
景仰民歸右弍臺
成物功深扶泰運
擎天力大挺良才
松官耐雪苍顏舊
梅判重春老筆開
歷事五朝天子聖
嶄然簪笏面公
                 陳元旦

Phiên âm:

Hạ Giới Hiên công
trừ nhiếp hữu bộc xạ

Cơ hành bính bính đại thôi khôi
Cảnh hữu dân quy hữu nhị đài
Thành vật công tâm phù thái vận
Kình thiên lực đại đĩnh lương tài
Tùng quan nại tuyết thương nhan cựu
Mai phán trùng xuân lão bút khai
Lịch sự ngũ triều thiên tử thánh
Tiệm nhiên công hốt diện công hoài (hòe)
                                   Trần Nguyên Đán

Dịch nghĩa:

Mừng ông Giới Hiên
được bổ chức hữu bộc xạ

Sáng rực như sao Bắc Đẩu cao vòi vọi như núi Thái Sơn
Dân đều ngưỡng mộ Hữu nhị đài
Việc đã thành công càng sâu giúp cho vận hội thái hòa
Chống nổi trời công thật lớn rõ bậc tài năng đĩnh đạc
Như cây tùng không ngại tuyết vẻ xanh vẫn như cũ
Tựa cây mai lại gặp xuân ngọn bút lão luyện muốn vịnh
Trải thờ năm triều vua thánh
Hiên ngang tram hốt xứng  bậc Tam công.

Dịch thơ:

Cao vời chót vót sáng muôn trùng
Dân quý hiền tài ngưỡng vọng ông
Giỏi việc công to phò nước thịnh
Chống trời sức lớn rõ oai phong
Tùng không ngại tuyết xanh như cũ
Mai gặp xuân thì bút muốn vung
Từng trải thờ năm triều thánh đế
Hiên ngang trâm hốt xứng tam công.
                             Đỗ Đình Tuân dịch

18/3/2012
Đỗ Đình Tuân





Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

ĐẾM TIỀN

Ông ngồi giương kính đếm tiền Đồng tiền mỏng thế mà liền với xương Tiền này là khoản tiền lương Là tiền năm tháng chiến trường cho ta ...