Thứ Tư, 21 tháng 3, 2012

Dịch thơ cổ: Trần Nguyên Đán 8

33.

家弟見蕭 都督示早
梅詩因賡其韻以贈

九泉根葉著微陽
朔吹初飛数萼香
大庾雲煙新調態
小春池館好風光
溪邊憔悴耐輕雪
竹外優遊得眾芳
寄語山礬須肖似
來年桃杏太郎當
                陳元旦

Phiên âm

Gia đệ kiến Tiêu đô đốc thị tảo
mai thinhân canh kỳ vận dĩ tặng

Cửu tuyền căn diệp trước vi dương
Sóc xúy sơ phi sổ ngạc hương
Đại dữu vân yên tân điệu thái
Tiểu xuân trì quán hảo phong quang
Khê biên tiều tụy nại khinh tuyết
Trúc ngoại ưu du đãi chúng phương
Ký ngữ sơn phàn tu tiếu tự
Lai niên đào hạnh thái lang đương
                              Trần Nguyên Đán

Dịch nghĩa:

Người em trai được Tiêu đô đốc
thị tảo mai thi nhân canh kỳ vận dĩ tặng

Từ dưới chín suối rễ và lá hút được khí dương mới
Gió bắc thổi mấy cánh hoa thơm bắt đầu bay
Gió mây trên núi Đại Dữu dáng điệu tươi xinh
Quán bên ao trong tiết tiểu xuân phong quang đẹp đẽ
Phờ phạc bên bờ tre quen với tuyết nhẹ
Thảnh thơi ngoài khóm trúc chờ các loài hoa
Nhắn hoa sơn phàn cần giống hệt như thế
Sang năm hoa đào hoa hạnh sẽ làm anh.

Dịch thơ:

Đất sâu rễ lá đượm hơi dương
Gió bấc bay hoa mấy cánh thơm
Đại Dữu gió mây xinh dáng điệu
Tiểu xuân ao quán đẹp phong quang
Bên khe phờ phạc đà quen tuyết
Dưới trúc an nhàn vẫn đợi hương
Nhắn bảo sơn phàn nên giống thế
Sang năm đào hạnh thái lang đương.
                                Trần Lê Sáng dịch

2.
Rễ sâu mà hút ánh dương cao
Gió bấc thơm bay mấy cánh vào
Dáng điệu xinh tươi mây Đại Dữu
Tiểu xuân đẹp đẽ quán bên ao
Bên khe bám tuyết bơ phờ thế
Dưới trúc chờ hoa lặng lẽ sao
Bảo với sơn phàn nên giống thế
Làm anh năm tới hạnh bên đào.
                          Đỗ Đình Tuân dịch

34.

偶題

中心認得本來空
便佇虚空在箇中
天下有为皆正理
人間無處不春風
清茶好酒供佳客
瘦竹疎梅伴老翁
覧鏡自慙惟一事
力扶衰病作三公
                 陳元旦

Phiên âm:

Ngẫu đề

Trung tâm nhận đắc bản lai không
Tiện trữ hư không tại cá trung
Thiên hạ hữu vi giai chính lý
Nhân gian vô xứ bất xuân phong
Thanh hà hảo tửu cung giai khách
Sấu trúc sơ mai bạn lão ông
Lãm kính tự tàm duy nhất sự
Lực phù suy bệnh tác tam công
                         Trần Nguyên Đán

Dịch nghĩa:

Ngẫu đề

Trong lòng nhận thấy vốn là không
Bèn dành cái hư không ở trong đó
Lẽ hữu vi trong thiên hạ đều là lẽ chính
Chốn nhân gian không chỗ nào không có gió xuân
Trà thanh rượu ngon thết đãi khách quý
Trúc gầy mai thưa làm bạn với ông già
Trông gương chỉ thẹn có một việc
Đó là cố chống đỡ với già bệnh để giữ chức tam công

Dịch thơ:
1.
Hỏi lòng biết được vốn là không
Nên mặc hư không cứ ở trong
Thiên hạ có duyên đều chính lý
Nhân gian đâu chỗ chẳng xuân phong
Trà thơm rượu ngọt mời tân khách
Trúc thẳng mai gầy đón lão ông
Ngắm bóng thẹn lòng duy một việc
Ốm hèn còn gắng giữ tam công.
                           Trần Lê Sáng dịch

2.
Cái lòng nhận được vốn là không
Cái vốn không này vẫn để trong
Thiên hạ “hữu vi” là lẽ chính
Nhân gian đâu chẳng có xuân phong
Trà ngon rượu quý mời người quý
Trúc khẳng mai gầy bạn lão ông
Ngắm bóng một điều ta vẫn thẹn
Gượng già giữ mãi chức tam công.
                           Đỗ Đình Tuân dịch

35.

賡試局諸生
唱酬佳韻

漢唐二宋又元明
例設詞科選俊英
何似聖朝求實学
當知萬世絕饑評
殿深乙夜觀書罷
月满秋風宿雨晴
一炷御香通帝闕
願聞忠孝狀元名
                陳元旦

Phiên âm:

Canh thí cục chư sinh
xướng thù giai vận

Hán Đường nhị Tống hựu Nguyên Minh
Lệ thiết từ khoa tuyển tuấn anh
Hà tự thánh triều cầu thực học
Đương tri vạn thế tuyệt cơ bình
Điện thâm ất dạ quan thư bãi
Nguyệt vãn thu phong túc vũ tình
Nhất chú ngự hương thông đế khuyết
Nguyện văn trung hiếu trạng nguyên danh.
                                      Trần Nguyên Đán

Dịch nghĩa:

Họa vần bài thơ xướng họa
của các thí sinh ở trường thi

Hán Đường nhị tống cho đến Nguyên Minh
Lệ đặt ra khoa từ chương để chọn người hiền tài
Sao giống thánh triều ta chỉ cầu thực học
Phải biết đó là để cho muôn đời sau dứt tiếng chê bai
Canh hai trong điện sâu xem sách vừa xong
Trăng tròn gió thu thổi trận mưa đã tạnh
Đốt nén hương vua thấu đến cửa thượng đế
Mong được nghe tên vị trạng nguyên trung hiếu.

Dịch thơ:
1.
Hán Đường nhị Tống lại Nguyên Minh
Lệ đặt từ khoa chọn tuấn anh
Sao giống triều ta cầu thực học
Muôn đời chắc hẳn dứt luận bình
Điện sâu mải đọc canh hai đến
Mưa tạnh trăng tròn gió nhẹ quanh
Đốt nén hương vua cầu thượng đế
Trạng nguyên trung hiếu nguyện nghe danh.
                                   Trần Lê Sáng dịch

2.
Hán Đường cho đến Nguyên Minh
Từ chương lệ đặt chọn anh tuấn rồi
Triều ta cầu thực học thôi
Đó là muốn để muôn đời khỏi chê
Điện sâu đọc sách canh khuya
Mưa tan gió tạnh đường về trăng trong
Hương vua thắp khấn cửu trùng
Cầu nghe tân trạng hiếu trung vẹn toàn.
                               Đỗ Đình Tuân dịch

36.

用杜存齐韻
呈試院諸公

回禄號風旋馬廳
松庭菊圃絕芳馨
自忴螙簡成灰
不耐秋圍入
剩喜英才歸藻鑑
行看黄榜出朝庭
亭將紅沫垂千古
懶笑當年謝柳青
               陳元旦

Phiên âm:

Dụng Đỗ Tồn Trai vận
trình thị viện chư công

Hồi lộc hào phong toàn mã sảnh
Tùng đình cúc phố tuyệt phương hinh
Tự linh đố giản thành hôi tẫn
Bất nại thu vi nhập tỏa quynh
Thặng hỷ anh tài quy tảo giám
Hành khan hoàng bảng xuất triều đình
Ninh tương hồng mạt thùy thiên cổ
Lãn tiếu đượng niên Tạ Liễu Thanh.
                                 Trần Nguyên Đán

Dịch nghĩa:

Dung vần thơ của ông Đỗ Tồn Trai
làm thơ gửi các ông trong trường thi

Lửa cháy gió gào trong cái sảnh đường nhỏ hẹp
Sân tùng vườn cúc đã dứt hẳn hương thơm
Đáng thương cho sách mọt đã thành tro tàn
Khoong chịu nổi vào chốn trường thi cửa khóa
Còn mừng là anh tài đã được kén chọn rồi
Sau đây sẽ thấy bảng vàng từ triều đình ban ra
Thà đem nét ghi bia đỏ để lại nghìn xưa
Chứ chả muốn cười Tạ Liễu thanh năm ấy.

Dịch thơ:

1.
Lửa bốc gió lùa nơi sảnh hẹp
Sân thông luống cúc ngán hương chìm
Đáng thương sách mọt thành tro bụi
Chẳng lẽ trường thi mắc khóa im
Sĩ giỏi gương văn còn xuất hiện
Bảng vàng sân chúa hãy quan chiêm
Nét son thà điểm lưu muôn thuở
Liễu tạ dù xanh cũng biếng xem.
                          Đào Phương Bình dịch

2.
Sảnh con lửa bốc gió lùa
Sân thông vườn cúc thôi giờ hết thơm
Sách thành tro bụi đáng thương
Không sao vào nổi hiện trường khóa im
Mừng thay sĩ giỏi đã tìm
Triều đình rồi sẽ yết trên bảng vàng
Nét son còn mãi tiếng vang
Liễu Thanh năm ấy cười nàng còn ai.
                             Đỗ Đình Tuân dịch

37.

題觀鹵簿詩集後

中兴文運邁軒羲
兆姓謳歌樂盛詩
鬪將從臣皆識字
吏員匠氏亦能詩
經天緯地心先觉
平北征南事可知
考罷文場觀武举
老臣何日望歸期
                陳元旦

Phiên âm:

Đề quan Lỗ Bạ thi tập hậu

Trung hưng văn vận mại Hiên Hy
Triệu tính âu ca lạc thịnh thi
Đấu tướng tùng thần giai thức tự
Lại viên tượng thị diệc năng thi
Kinh thiên vĩ địa kinh thiên giác
Bình bắc chinh nam sự khả tri
Khảo bãi văn tràng quan võ cử
Lão thần hà nhật vọng quy kỳ.
                    Trần Nguyên Đán

Dịch nghĩa:

Đề sau tập thơ quan Lỗ Bạ

Vận hội văn chương đời Trung hưng hơn cả đời Hiên Hy
Muôn dân ca hát ca đời thịnh trị
Tường võ quan hầu đều biết chữ
Thư lại thợ thuyền cũng làm thơ
Ngang trời dọc đất lòng cầm chắc trước
Dẹp bắc đánh nam việc đã hay
Khảo xong trường văn lại xem thi võ
Kẻ lão thần kỳ nào mới mong được kỳ về

Dịch thơ:
1.
Trung hưng văn vận vượt đời xưa
Thời thịnh muôn dân ngợi hát ca
Tướng võ quan hầu đều biết chữ
Thợ thuyền thư lại cũng hay thơ
Ngang trời dọc đất lòng cầm chắc
Dẹp bắc chinh nam việc sẵn lo
Khảo trọn trường văn xem thí võ
Lão thần xong hẹn biết bao giờ.
               Nguyễn Đức Vân-Đào Phương Bình dịch

2.
Trung Hưng văn vượt Hiên-Hy
Thái bình thịnh trị bốn bề âu ca
Ai ai đều biết chữ mà
Thợ thuyền thư lại nhà nhà làm thơ
Ngang trời dọc đất không lo
Đánh nam dẹp bắc tiền đồ cầm tay
Thi văn xong khảo võ ngay
Lão thần này biết đến ngày nào hưu.
                                Đỗ Đình Tuân dịch

38.

題崇虚老宿

暂解塵纓世外拋
芒鞋黎杖與君交
檻前雲氣蓬萊遠
枕畔泉聲碧漢高
寸断玄關飛刼石
側生海宇入秋毫
清虚羽属相逢晚
一豁虚公老眼篙
                 陳元旦

Phiên âm:

Đề Sùng Hư lão túc

Tạm giải trần anh thế ngoại phao
Mang hài lê trượng dữ quân giao
Hạm tiền vân khí Bồng lai viễn
Chẩm bạn tuyền thanh bích hán cao
Thốn đoạn tuyền thanh phi kiếp thạch
Trắc sinh hải vũ nhập thu hào
Thanh hư vũ thuộc tương phùng vãn
Nhất khoát hư công lão nhãn cao.
                             Trần Nguyên Đán

Dịch nghĩa:

Đề chỗ ở cũ của Sùng Hư

Tạm cởi giải mũ trần tục vứt ra ngoài cõi đời
Mang giày cỏ chống gậy lê ngao du cùng ông
Mây tụ trước hiên Bồng Lai xa thẳm
Suối reo bên gối trời xanh cao vời
Tạm đóng cửa huyền lại để đi vào cõi không gian vô tận
Sống ghé trong hải vũ chỉ là bước đi vào chốn thu hào
Người thanh hư và kẻ áo lông gặp nhau muộn
Nhưng đã mở rộng con mắt lờ mờ cho ông già hư không.

Dịch thơ:

Cởi mũ trần ai rũ bụi hồng
Gậy lê hài cỏ bạn cùng ông
Trước hiên mây họp xa Bồng đảo
Bên gối  đàn khe cách cửu trùng
Tạm đóng cửa huyền vào cõi tận
Sống nhờ “nhà biển” ghé “hư không”
Người thanh kẻ tục quen nhau muộn
Cặp mắt lờ mờ đã thoáng trong.
                             Đỗ Đình Tuân dịch

39.

寄贈蘃溪檢正阮應龍

朔風細雨轉淒涼
客舍箫箫客思長
籬下幽姿存晚節
溪遍素艷試新粧
胡兒未欵花門塞
裴老思歸綠野棠
釣月耕雲何太早
千鍾萬宇子微郎
                陳元旦

Phiên âm:

Ký tặng Nhị Khê kiểm chính Nguyễn Ứng Long

Sóc phong tế vũ chuyển thê lương
Khách xá tiêu tiêu khách tứ trường
Ly hạ u tư tồn vãn tiết
Khê biên tố diệm thí tân trang
Hồ nhi vị khoản Hoa Môn tái
Bùi lão tư quy Lục Dã đường
Điếu nguyệt canh vân hà thái tảo
Thiên chung vạn vũ Tử vi lang.
                            Trần Nguyên Đán

Dịch nghĩa:

Gửi tặng kiểm chính Nguyễn Ứng Long ở Nhị Khê

Gió bắc mưa phùn trở nên lạnh lẽo
Nơi quán trọ đìu hiu lòng khách vấn vương
Vẻ thanh u dưới giậu tiết muộn giữ tròn
Sắc trắng đẹp bên khe dáng mới dường thử
Rợ Hồ chưa đến nộp hàng khoản ở ải Hoa Môn
Ông Bùi đã muốn về dưỡng lão ở nhà Lục Dã
Câu trăng cầy mây sao mà sớm thế
Nghìn hộc lúa muôn ngôi nhà là của Tử Vi lang.

Dịch thơ:
1.
Mưa phùn gió bắc cảnh thê lương
Quán trọ đìu hiu khách vấn vương
Dưới giậu vẻ thanh còn tiết muộn
Bên khe hoa trắng nức mùi hương
Hồ nhi chưa đến Hoa Môn tái
Bùi lão ưng về Lục Dã đường
Câu nguyệt cầy mây sao sớm thế
Muôn chung nghìn tứ Tử vi lang.
                              Nguyễn Đức Vân dịch

2.
Mưa phùn gió bắc lạnh lùng
Đìu hiu quán trọ khách lòng vấn vương
Vẻ thanh tiết muộn giữ tròn
Bên khe trắng đẹp như còn mới hơn
Rợ Hồ chưa đến Hoa Môn
Ông Bùi đã Lục Dã đường muốn quay
Câu trăng ai sớm cầy mây
Nghìn chung vạn mái của này phần ai ?
                              Đỗ Đình Tuân dịch

40.

奉餞樞府西征行軍
都總管黎公

前矛照日輚 蒸沙
遠畧交暹 役瓜哇
萬里砲摧雄虎
九桅船蹵渤溟波
秦兵膽喪秋風鶴
蔡將神驚雪夜鵝
待剥闍槃夷蟻垤
泚洳掾筆作鐃歌
                 陳元旦

Phiên âm:

Phụng tiễn xu phủ tây chinh hành quân
đô tổng quản Lê Công

Tiền mâu chiếu nhật chiếm chưng ca
Viến lược giao Tiêm dịch Qua Oa
Vạn lý pháo tồi hùng hổ lũy
Cửu nguy thuyền xúc bột minh ba
Tần binh đảm tàng thu phong hạc
Thái tướng thần kinh tuyệt dạ nga
Đãi bác Đồ Bàn di nghĩ điệt
Thử như duyện bút tác nao ca.
                             Trần Nguyên Đán

Dịch Nghĩa:

Tiễn xu phủ tây chinh hành quân
đô tổng quản Lê Công

Ngọn cờ đi trước rọi ánh mặt trời phất phơ trên cát nóng
Mưu lược xa là giao hảo với Tiêm La và khống chế Qua Oa
Muôn dặm súng lớn bắn tan lũ gấu cọp
Chín cbuồm dong lướt qua sóng biển khơi
Quân Tần vỡ mật trong tiếng hạc mùa thu
Tướng Thái kinh hồn vì tiếng ngỗng đêm tuyết
Chờ đợi tin san phẳng tổ kiến Đồ Bàn
Chấm ướt ngòi bút làm bài ca cho quân đội.

Dịch thơ:
1.
Bóng nhật soi cờ bãi cát qua
Hòa Tiêm sai khiến đảo Qua Oa
Súng muôn dặm bắn tan đồn giặc
Thuyền chín buồm going vượt biển xa
Vỡ mật quân tần kinh tiếng hạc
Mất hồn tướng Thái khiếp bầy nga
Đồ Bàn san phẳng chờ tin báo
Vẩy bút trong quân thảo khúc ca.
                       Nguyễn Đức Vân dịch

2.
Ngọn cờ rọi nắng vượt trùng xa
Hòa với Tiêm và khống chế Qua
Súng lớn bắn tan bầy gấu cọp
Thuyền to vượt biển đạp phong ba
Quân Tần vỡ mật nghe chim hạc
Tướng Thái kinh hồn thấy tuyết nga
San phẳng Đồ Bàn chờ thắng trận
Trong quân chấm bút viết bài ca.
                         Đỗ Đình Tuân dịch

21/3/2012
Đỗ Đình Tuân

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

ĐẾM TIỀN

Ông ngồi giương kính đếm tiền Đồng tiền mỏng thế mà liền với xương Tiền này là khoản tiền lương Là tiền năm tháng chiến trường cho ta ...