Thứ Sáu, 16 tháng 3, 2012

Dịch thơ cổ: Trần Nguyên Đán 3

7.

寳嚴塔      

九層倚漢築堅牢
萬古櫺珑佛骨韜
曉日光臨奎画動
夜風吹起鐸聲高
三摩地上簮苍玉
那舍城中湧白毫
一笑無憂粧七寶
龍蛇追琢役民勞        
               陳元旦         

Phiên âm:

Bảo Nghiêm tháp

Cửu tầng ỷ Hán trúc kiên lao
Vạn cổ linh lung Phật cốt thao
Hiểu nhật quang lâmkhuê hoạch động
Dạ phong xuy khởi đạc thanh cao
Tam ma địa thượng trâm thương ngọc
Na xá thành trung dũng bạch hào
Nhất tiếu vô ưu trang thất bảo
Long xà đôi trác dịch dân lao.
                     Trần Nguyên Đán

Dịch nghĩa:

Tháp Bảo Nghiêm

Chín tầng dựa vào Ngân Hán kiến trúc vững vàng
Dấu thiêng muôn thuở nơi cất dấu hài cốt Phật
Ánh sáng ban mai rọi vào nét sao Khuê như rung động
Gió đêm thổi đến tiếng mõ vang vang
Trong tam ma cắm cái trâm ngọc xanh
Nơi na xá đựng ngọn bút trắng
Cười cho sự vô lođem thất bảo điểm tô lên tháp
Trạm trổ rồng rắn làm cho dân phải mệt nhọc.

Dịch thơ::

Vững vàng kiến trúc chín tầng cao
Cốt Phật dấu thiêng cất đựng vào
Nắng sớm soi lên hàng chữ động
Gió đêm thổi đến mõ vang cao
Tam ma cắm chiếc trâm xanh ngọc
Na xá dựng cây bút trắng mao
Cười kẻ vô lo ham đắp vẽ
Trạm rồng trổ rắn khổ dân sao.
                                     Đỗ Đình Tuân dịch

8.

題玄天紫宮

耿耿三花数仞開
蹇林鬱秀絕雰埃
玉皇校籙紅雲擁
金母朝元翠葆回
春日早移花影動
秋風晚送鶴聲來
流光殿下松千樹
盡是擎天一手栽
               陳元旦

Phiên âm:

Đề Huyền Thiên Tử Cực cung

Cảnh cảnh tam hoa sổ nhận khai
Kiển lâm uất tú tuyệt phân ai
Ngọc Hoàng hiệu lục hồng vân ủng
Kim Mẫu triều nguyên thúy bảo hồi
Xuân nhật tảo di hoa ảnh động
Thu phong vãn tống hạc thanh lai
Lưu Quang điện hạ tùng thiên thụ
Tận thị kình thiên nhất thủ tài.
                          Trần Nguyên Đán

Dịch nghĩa:

Đề cung Tử Cực ở động Huyền Thiên

Trên cao mấy nhận rực rỡ hoa một năm nở ba lần
Khu rừng xanh tốt cách biệt bụi bậm
Ngọc Hoàng đi tuần sát có mây hồng che phủ
Kim Mẫu vào chầu có lọng xanh rước về
Buổi sớm nắng xuân đẩy bong hoa lay động
Buổi chiều gió thu đưa tiếng hạc về
Phía dưới điện Lưu Quang có hàng nghìn cây thông
Hết thảy các cây chọc trời ấy đều do một tay trồng.

Dịch thơ:
1.
Rực rỡ ba mùa hoa nở tươi,
Rừng đây xanh tốt cách xa đời.
Ngọc hoàng tuần sát mây chào đón;
Kim mẫu vào chầu lọng rước lui.
Nắng sớm xuân lay hoa khẽ động;
Gió chiều thu gọi hạc kêu hoài.
Lưu quang dưới điện nghìn thông đứng,
Thảy được tay người trồng cả thôi.
                                    Đỗ Đình Tuân dịch
                   
2
“Tam hoa” rực rỡ tuyệt vời
Rừng xanh ngút mắt xa vời trần gian
Mây hồng nâng bước Ngọc Hoàng
Lọng xanh Kim mẫu bay ngang lưng trời
Nắng xuân lay động hoa cười
Gió thu xào xạc hạc chơi bên hồ
Trước đền tùng bách lô xô
Muôn ngàn do một thiên cơ tài bồi.
                                    Hoàng Giáp dịch

9.

山中偶成

長安紫陌厭輕肥
好向崟山閉隱屝
乾葉耳喧風北起
虚庭目送日西歸
谁將綠鬢逢青眼
笑把黃花待白衣
我醒皆自可
殺身沽礜屈原非
                 陳元旦


Phiên âm:
Sơn trung ngẫu thành

Trường an tử mạch yếm khinh phì
Hảo hướng ngâm sơn bế ẩn phi
Can diệp nhĩ huyên phong bắc khởi
Hư đình mục tống nhật tây quy
Thùy tương lục mấn phùng thanh nhãn
Tiếu bả hoàng hoa đãi lục y
Chúng túy ngã tinh giai tự khả
Sát thân cô dự Khuất Nguyên phi.
                         Trần Nguyên Đán

Dịch nghĩa:

Trong núi ngẫu nhiên làm thành thơ

Trên đường tía Trường An chán mặc áo lông nhẹ cưỡi ngựa béo
Thích đến nơi núi cao khép cánh cửa ở ẩn
Gió từ phương bắc thổi tới lá khô xào xạc bên tai
Trong sân vắng vẻ đưa mắt tiễn mặt trời lặn về phía tây
Ai đem mái tóc xanh gặp mắt xanh
Cười kẻ cầm bông hoa vàng đợi khách áo trắng
Mọi người say riêng ta tỉnh đều do nơi mình cả
Tự sát để mua tiếng khen như Khuất Nguyên là sai.

Dịch thơ:

Kinh kỳ rày đã ngán quan sang
Về ẩn non cao khép thảo đường
Tai rộn heo may ngoài lá nỏ
Người đưa chiều xế giữa sân quang
Mắt xanh tóc biếc ai vồn vã
Áo trắng hoa vàng dạ vấn vương
Ta tỉnh người say ừ cũng được
Mua danh tự sát Khuất Nguyên xoàng.
                                                Đào Phương Bình dịch

Áo lông ngựa béo ngán thay
Thèm về núi vắng tháng ngày thảnh thơi
Lá khô xào xạc bên tai
Sân quang mắt tiễn mặt trời về tây
Tóc xanh mắt biếc ai hay
Hoa vàng áo trắng dạ này thầm chê
Đã rằng ta tỉnh người mê
Mua danh tự sát hay gì Khuất Nguyên.
                                              Đỗ Đình Tuân dịch

10.
小雨

小春山雨細霏微
出岫雲深片片飛
障日濛漫昏似曉
随風箫瑟密還稀
梅含玉粒傳天信
竹并琅簪泄地機
睡起炉香殘幾度
村翁未把一黎歸
                 陳元旦

Phiên âm:
Tiểu vũ

Tiểu xuân sơn vũ tế phi vi
Xuất tụ sơn thâm phiến phiến phi
Chướng nhật mông man hôn tự hiểu
Tùy phong tiêu sắt mật hoàn hy
Mai hàm ngọc lạp truyền thiên tín
Trúc tính lang trâm tiết địa ky
Thụy khởi lô hương tàn kỷ độ
Thôn ông vị bả nhất lê quy.
                      Trần Nguyên Đán

Dịch nghĩa:

Mưa nhỏ

Tiết tiểu xuân mưa núi lất phất
Mây dầy đặc từ hang núi bốc lên từng đám
Mưa rây che mặt trời khi tối khi sáng
Theo làn gió hiu hiu hết nhặt lại thưa
Cây mai ngậm hạt ngọc như đưa tin thời tiết của trời
Khóm trúc cài trâm ngọc xanh như để lộ sự huyền bí của đất
Ngủ dậy hương trong lò đã tàn mấy lượt
Nhưng ông già trong xóm vẫn chưa vác cày về.

Dịch thơ:
1.
Tháng mười mưa núi nhỏ lây rây
Hang đá mây tuôn đám đám bay
Bong rợp âm u ngày tưởng tối
Gió đưa hiu hắt mỏng lại dầy
Cành mai ngậm ngọc tin trời báo
Khóm trúc cài tram máy đất quay
Ngủ dậy hương lò tàn mấy lượt
Thôn ông vẫn chửa nghỉ đường cày.
                                                Trần Lê Sáng dịch

2.
Tiểu xuân mưa núi lay phay
Mây từ hang núi bốc dầy từng cơn
Mưa rây che nắng chập chờn
Gió đưa khi nhặt khi khoan từng hồi
Tuyết mai lún phún tin trời
Trâm măng khóm trúc nói lời đất sâu
Tỉnh ra lò tắt đã lâu
Ông già trong xóm cày đâu đã về.
                                                Đỗ Đình Tuân dịch

16/3/2012
Đỗ Đình Tuân 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

ĐẾM TIỀN

Ông ngồi giương kính đếm tiền Đồng tiền mỏng thế mà liền với xương Tiền này là khoản tiền lương Là tiền năm tháng chiến trường cho ta ...