16 –
Vũ Tú Nam
Vốn cùng nhân dân tiến lên
Mùa đông năm ấy bỏ quên cờ đào
Con về nấp bóng ca dao
Giật mình nghe một tiếng chào Văn Ngan
Xuân Sách
Mùa đông năm ấy bỏ quên cờ đào
Con về nấp bóng ca dao
Giật mình nghe một tiếng chào Văn Ngan
Xuân Sách
-Văn Ngan tướng công: Truyện thiếu nhi 1963
Tham
khảo thêm
Anh em nhà Núi đôi
và Văn Ngan tướng công
và Văn Ngan tướng công
TP - Vũ Cao, Vũ Ngọc Bình, Vũ Tú Nam - ba nhà văn, ba
anh em ấy đích thị là ba người hiền. Nhưng những gì họ nếm trải, nhất là với Vũ
Tú Nam - trong giới gọi đùa là Văn Ngan tướng công và Vũ Cao- nổi tiếng với bài
thơ Núi đôi thì lắm khi khốc liệt, mà không mấy người được biết.
Trong gần
hai thập kỷ hoạt động văn nghệ ở tỉnh Hà Nam Ninh, Nam Hà, rồi Nam Định, tôi đã
có không ít dịp vinh hạnh được làm quen, được tháp tùng, được dạo chơi cùng các
văn nghệ sĩ đàn anh đàn chị về với miền đất “Non Côi sông Vỵ” quê tôi.
Nhớ lại
chuyến đi cùng ba nhà văn họ Vũ - ba anh em trai: Vũ Cao, Vũ Ngọc Bình, Vũ Tú
Nam cách đây khoảng 8 năm là một chuyến đi khá thú vị.
Nhà văn Vũ
Tú Nam từng là đại biểu Quốc hội, cơ cấu đoàn Nam Định, nhiều bận về Thành Nam
họp hành, ông thường ghé về thăm quê: xã Liên Minh, huyện Vụ Bản. Xã này nổi
tiếng về sự kiện rào làng kháng chiến thời chống Pháp, từng được Nhà nước tuyên
dương Anh hùng.
Liên Minh
càng được nhiều người biết đến hơn khi nơi đây đã sinh thành cho đất nước những
nhân vật danh giá, như các chính trị gia Song Hào, Nguyễn Cơ Thạch; các nhạc sĩ
Văn Cao, Văn Ký và ba anh em nhà văn họ Vũ mà tôi đang nói tới.
Vũ Cao - ông
từ vui vẻ trẻ trung
Nhà thơ Vũ
Cao, nhà văn Vũ Ngọc Bình, hai ông anh của Vũ Tú Nam, thì ít về quê hơn. Dạo đó
Vũ Tú Nam thôi thủ vai Tổng Thư ký Hội Nhà văn Việt Nam được khoảng hơn
một năm thì một hôm ông gọi cho tôi nói rằng, ông chuẩn bị đưa hai người anh về
thăm quê và muốn tôi đi cùng.
Thực ra ở
quê của các ông bây giờ người ruột thịt không còn nhiều; thân cận nhất cũng chỉ
là một ông em con thúc bá. Thúc giục ráo riết cho chuyến hồi hương là ông anh
cả Vũ Cao.
Tuổi già
đang sầm sập đến, Vũ Cao e rằng nếu không nhanh thực hiện một chuyến về quê
“dối già” thì khó có dịp thứ hai. Quả thật, đó là chuyến về thăm quê lần cuối
của tác giả Núi đôi, bởi sau chuyến ấy ít lâu, các căn bệnh thuộc về tuổi già
bắt đầu hiển lộ, hành hạ ông cho tới lúc ông qua đời.
Ngồi trên
chiếc xe con đã lỗi mốt của Hội Nhà văn, tôi có dịp quan sát kỹ ba ông, một lần
nữa nhận thức của tôi được củng cố thêm rằng, ba con người đang đồng hành cùng
tôi đây đích thị là ba người hiền. Vâng, ba anh em họ đều rất hiền lành. Cái sự
hiền vừa có từ gien di truyền của các bậc sinh thành vừa do hiểu thấu cõi đời,
cõi người mà có.
Suốt chuyến
rong ruổi, chỉ ông anh cả Vũ Cao là hay nói. Ông nói nhiều chuyện, chuyện nào
cũng vui, cũng xôm trò. Ông nói nhiều, pha trò nhiều đến độ chúng tôi cảm giác
có gì đó hơi bất bình thường, cứ như ông cần phải nói cho hết những điều cần
nói với các em ông, với tôi, kẻo mai kia rồi sẽ không được nói.
Trong những
câu chuyện tuyệt nhiên không thấy ông chê trách, oán thán ai; không chỉ trích
chê bai khinh miệt một tác phẩm nào của đồng nghiệp. Chuyện của ông toàn ở dạng
“vui vẻ trẻ trung”, đôi khi có vẻ như chuyện tầm phào, nhưng không hiểu sao
chúng tôi vẫn cứ thích nghe.
Rồi trong
tôi nảy sinh một phép so sánh: Giữa một ông Vũ Cao, Tổng biên tập “sáng giá”
của tạp chí Văn nghệ quân đội nhiều năm với một ông Vũ Cao hiền khô, tầm phào
đang ngồi cạnh tôi đây có gì “mâu thuẫn” không? Cái thời Vũ Cao làm Tổng biên
tập có thể coi là thời vàng son của tạp chí Văn nghệ quân đội.
Châu tuần
quanh Vũ Cao ngày đó là những tên tuổi sáng danh, mỗi người một cá tính: Từ
Bích Hoàng, Nguyễn Thi, Nguyễn Khải, Nguyễn Minh Châu, Xuân Thiều, Nguyễn Trọng
Oánh, Hồ Phương, Nam Hà, Xuân Sách, Mai Ngữ... Rồi tiếp đến: Đỗ Chu, Lê Lựu,
Triệu Bôn, Nguyễn Thị Như Trang... và nhiều cây bút nữa cũng chịu sự “cai quản”
của ông từ coi đền Vũ Cao.
Tôi nói với
ông rằng, với 15 năm “chăn dắt bầy chiên” mà không phải con chiên nào cũng
ngoan đạo, vậy mà ông Tổng biên tập Vũ Cao không để xảy ra điều gì đáng tiếc;
trái lại, những người từng được ông “chăn dắt” cứ nhắc đến ông là thuần một
giọng thân thương, thành kính, như thế nghĩa là sao?
Cũng đã có
người từng hỏi Vũ Cao như thế, và ông đã trả lời “chơi chơi”, đại khái, ông làm
lãnh đạo mà như không lãnh đạo gì cả. Câu trả lời thoáng nghe thì như chẳng có
gì đáng bàn, nhưng tinh ý thì thấy đó là cả một phương châm xử thế của người
lãnh đạo đối với giới trí thức văn nghệ sĩ.
Còn bây giờ
tôi cũng hỏi ông câu đó thì ông trả lời, tớ làm Tổng biên tập tạp chí Văn nghệ
quân đội nhiều năm “thông dòng bén giọt” là bởi tớ có cái tiếng cười khà khà.
Trả lời tôi xong, như là để thị phạm cho điều mình đang nói, ông bật lên tiếng
cười khà khà rõ dài, rõ to.
Suy ra thì
câu ông trả lời tôi cũng nhất quán với câu ông trả lời mọi người trước đây.
Phải, cái tiếng cười khà khà của ông nó đã nói lên tất cả, rằng lãnh đạo giới
văn chương, vui vẻ và giúp đỡ họ là thượng sách, định kiến hay gây hại cho họ
là hạ sách!
Sau này khi
Vũ Cao thôi ở Văn nghệ quân đội chuyển ra dân sự làm Giám đốc Nhà xuất bản Hà
Nội, Phó Chủ tịch Hội Liên hiệp văn học nghệ thuật Hà Nội, ông vẫn giữ cách
sống như thế.
Văn Ngan
tướng công vượt qua giông bão
Vũ Tú Nam là
em út, phong thái có vẻ nho nhã, chậm chạp, nhưng xem ra quãng đời làm “quan
văn nghệ” dài hơi hơn và gặp lắm “đoạn trường” hơn ông anh cả Vũ Cao.
Năm 1958,
đang mang tước chính trị viên tiểu đoàn, làm việc ở Phòng Văn nghệ quân đội thì
Hội Nhà văn xin với trên điều động ông sang công tác Hội. Trong quá trình ở Hội
Nhà văn, Vũ Tú Nam làm việc trên nhiều bình diện. Làm Phó bí thư Đảng bộ các
hội Văn học nghệ thuật (Bí thư là nhà văn Tô Hoài), rồi làm Bí thư Đảng bộ cơ
quan Hội Nhà văn nhiều năm.
Làm Thư ký
toà soạn (nhà thơ Hoài Thanh làm Chủ nhiệm) báo Văn học, rồi báo Văn nghệ. Làm
Bí thư chi bộ, kiêm “hiệu phó” (nhà văn Nguyên Hồng làm “hiệu trưởng”, nhà văn
Kim Lân làm ủy viên) Trường bồi dưỡng viết văn Quảng Bá khóa II; mà cái khóa ấy
“nảy nòi” ra kha khá những tên tuổi ấn tượng: Đỗ Chu, Triệu Bôn, Lê Lựu...
Làm Giám đốc
Nhà xuất bản Tác phẩm mới 15 năm; rồi làm Tổng biên tập tạp chí của Hội cái
thủa ban đầu. Và đến Đại hội nhà văn lần IV, ông được bầu làm Tổng thư ký của
Hội.
Sau này nếu
có một tập kỷ yếu mang tính chất tổng duyệt lại quá trình hình thành, xây dựng
và phát triển Hội Nhà văn Việt Nam, người ta không thể không ghi danh Vũ Tú Nam
vào một trong những dòng đầu trang trọng.
Tôi có những
kỷ niệm rất khó quên trong những lần tôi và nhà văn Vũ Tú Nam đi thương thuyết
lấy lại được khu thổ cũ của thi sĩ Nguyễn Bính, rồi cả những lần đi can thiệp
để gia đình nhà văn Nam Cao có một mảnh đất mặt tiền phố Nguyễn Du, thành phố
Nam Định.
Nhưng trong
một bài viết mà cứ “khoe hay”, toàn những chuyện thuận buồm xuôi gió chắc nhà
văn Vũ Tú Nam cũng không thích, mặc dù những việc hay việc tốt ông làm không
phải là ít. Tôi chỉ xin kể hầu bạn đọc dăm bảy việc có vẻ “gai góc” mà Vũ Tú
Nam phải đối mặt.
Xưa nay Vũ
Tú Nam được tiếng là viết điềm đạm, giản dị, thế mà vào năm 1963, cái truyện
Văn Ngan tướng công của ông ra mắt đã trở thành một vụ “xì-căng-dan” khá là ầm
ĩ. Văn Ngan tướng công vừa được Nhà xuất bản Kim Đồng cho xuất xưởng thì đã lọt
vào cặp mắt xanh của nhà văn Marian Tkachov, ông này đã dịch truyện đó sang
tiếng Nga và xuất bản ở Liên Xô.
Thời điểm ấy
bên Liên Xô đang có vấn đề “xét lại” nên tất cả những gì liên quan đều bị xem
xét. Văn Ngan tướng công đã không tránh được sự soi xét và suy diễn. Đã có
những câu hỏi nghi vấn đến “chết người”.
Đã có bài
báo lên tiếng phê phán gay gắt, thậm chí cuối bài tác giả kết luận: Vũ Tú Nam
viết Văn Ngan tướng công rất có hại, tác giả mang món nợ với thiếu nhi Việt
Nam...
Viện Văn học
tổ chức một cuộc hội thảo về Văn Ngan tướng công. Nhà văn Vũ Tú Nam biết có
cuộc hội thảo, ông đề nghị Ban tổ chức cho ông tham dự. Sau khi tranh luận và
tranh biện, đến phần Vũ Tú Nam phải nói thì ông trả lời rất giản dị:
Tôi quan sát
cuộc sống của bầy ngan thấy có những điểm hay thì tôi viết chứ không có ý
ám chỉ ai. Mọi người có vẻ chịu lý, nhưng sau hội nghị không khí căng thẳng vẫn
chưa hề thuyên giảm.
Phải tới một
cuộc họp về đề tài nông nghiệp ở Thái Bình, đại tướng Nguyễn Chí Thanh nói với
những người có trách nhiệm định đoạt cho số phận những tác phẩm văn học rằng
Văn Ngan tướng công viết tốt, người lớn hay trẻ con đều đọc được. Dư luận từ đó
lắng đi...
Hơn chục năm
sau,Vũ Tú Nam lại dính cái vụ Cây táo ông Lành. Báo Văn nghệ vừa in ra đã
xôn xao cả nước. Ngày đó để xảy ra những việc như thế là khá nặng nề và không
thể nói là không nguy hiểm. Khi tòa soạn nhận được những ý kiến phản hồi, phê
phán, thì Vũ Tú Nam tìm đến cái nhà máy nơi Hoàng Cát, tác giả truyện ngắn Cây
táo ông Lành đang làm việc để tìm hiểu, thẩm tra.
Có dư luận
cho rằng, đứng sau Hoàng Cát là một thế lực hắc ám nào đó, không loại trừ đám
nhân văn– giai phẩm còn rơi rớt lại, xúi giục, thậm chí trực tiếp nhúng bút
viết, Hoàng Cát chỉ là người đứng tên! Sau khi Vũ Tú Nam thẩm tra, biết chắc
Hoàng Cát đích thị là tác giả của cái truyện ngắn đầy “thân phận” nọ thì một
cuộc họp của cơ quan cấp trên đã diễn ra. Chủ nhiệm Hoài Thanh từ chối không đi
dự họp.
Ông nói, Cây
táo ông Lành chẳng có gì đáng phải ấm ĩ như thế. (Vũ Tú Nam nói, Hoài Thanh là
người rất “bướng” chứ Xuân Sách viết chân dung nói Hoài Thanh là người “vị cấp
trên” là không đúng). Hoài Thanh từ chối họp, ủy quyền cho Vũ Tú Nam đi thay.
Cuộc họp hôm ấy người ta phát biểu rất hăng. Không ít những ý kiến quy kết
chính trị.
Đến lượt
mình, Vú Tú Nam chỉ nói rất nhẹ nhàng: Hoàng Cát là một thương binh mới từ
chiến trường chuyển ngành về. Đọc truyện Cây táo ông Lành tôi chỉ thấy tình yêu
tác giả dành cho cuộc sống, cho con người chứ không thấy chỗ nào có biểu hiện
muốn lật đổ cái thể chế mà anh ta đã mang máu mình ra để gìn giữ.
Nhân đây tôi
cũng xin thưa rằng, nếu đọc tác phẩm văn chương mà cứ theo lối suy diễn rồi kết
tội cho người ta thì rất nhiều tác phẩm sẽ bị, chứ không riêng Cây táo ông
Lành! Sau hội nghị ấy, vẫn còn nhiều ý kiến khác nhau, nhưng đó là thời kỳ đất
nước bận những việc lớn hơn nên vụ việc cũng lắng dần xuống...
Nhưng nếu
nói về những vụ việc dữ dội, hóc hiểm mà Vũ Tú Nam phải đối mặt thì phải kể đến
thời kỳ ông làm Tổng thư ký Hội Nhà văn Việt Nam. Theo chính kiến của rất nhiều
nhà văn thì kể từ khi thành lập Hội (1957) đến nay, chưa có nhiệm kỳ nào mà
tính phức tạp của nó được đẩy đến tận cùng như cái nhiệm kỳ IV ấy. Tính phức
tạp được biểu hiện ngay từ khi bước chân vào phiên họp trù bị đại hội, mở đầu
nhiệm kỳ. Xu thế khát khao đổi mới thì cháy bỏng.
Nhưng Liên
Xô vừa tan rã khiến không ít người hoang mang, ngại ngần, muốn quay về cố thủ
với cái cũ. Chuyện nhà văn Nguyên Ngọc vừa bị miễn nhiệm chức Tổng biên tập báo
Văn nghệ cũng tạo ra những làn sóng khác nhau tranh luận trong đại hội.
Rồi những
oan khuất của nhà văn này, những ẩn ức của nhà thơ kia được phơi lộ. Mở đầu
phần tham luận, một nhà văn nữ đã đứng lên đề nghị đại hội không bầu Ban chấp
hành và Tổng thư ký mà chỉ bầu một già làng!
Những luồng
ý kiến cứ căng dần lên, cọ xát nhau chan chát, mà xem ra khó phân thắng bại.
Cuối cùng người ta bầu ông “bụt” Vũ Tú Nam làm Tổng thư ký, như một ông gác
đền, ấy thế mà xem ra bớt căng thẳng, từ lúc ấy không khí lắng dịu hẳn xuống...
Một thời Hội
Nhà văn đầy biến động
Cho dù cầm
trịch một nhiệm kỳ vô cùng phức tạp, với những khúc quanh giông gió, song không
phải không có những cơ hội cho người đứng đầu thực hiện những toan tính cá
nhân, nếu muốn.
Tôi có đọc ở
đâu đó, một nhà tư tưởng hiện đại khái quát rằng, thời nay căn bệnh trầm kha
nhất của nhân loại là thói lộng hành. Đặc biệt ở những quốc gia đang phát triển
và thiếu dân chủ thì thói lộng hành càng có nhiều đất sinh sôi, bành trướng.
Thói lộng
hành chính là một trong những căn nguyên dẫn đến cuộc diệt chủng vùi gần 1/3
dân số Căm-pu-chia trong những hố chôn tập thể, cuộc khủng bố ngày 11 tháng 9
nhằm vào tòa tháp đôi của nước Mỹ làm tiêu vong hơn 3.000 mạng người vv...
Nếu ông Tổng
thư ký Vũ Tú Nam có chút thói lộng hành, ông có thể mượn cái ghế của mình làm
nhiều thứ, mà đi nước ngoài như đi chợ, mà vun vén chỗ ngồi cho người thân,
thậm chí một kẻ viết văn xoàng xóe như tôi không khéo cũng được một suất ăn
theo nhờ tình đồng hương đồng khói cũng nên!
Nhưng sự
thật thì Vũ Tú Nam không có căn bệnh đó. Cả nhiệm kỳ, ông có đi Thụy Điển một
chuyến, Pháp một chuyến, Lào một chuyến. Đi trong tình thế buộc phải đi để giải
quyết công việc đối ngoại của Hội. Những việc “êm đềm, ngọt ngào” như thế thì
ít. Việc chông gai, ghềnh thác thì nhiều.
Vừa ngồi ghế
Tổng thư ký chưa ấm chỗ, Vũ Tú Nam đã phải giải tỏa một vụ lộng hành ghê gớm:
Một người viết văn trẻ ở một tỉnh Nam Trung Bộ bị tống giam trái phép.
Người viết văn trẻ ấy, một sĩ quan công an, tên là Kim Anh (cái tên hàm chứa nữ
tính hơn nam tính).
Kim Anh viết
cuốn tiểu thuyết có tên là Lãng đãng sương mù, giá trị văn chương không có gì
đáng nói, cái đáng nói là trong đó có nhiều pha sex. Người ta lên án cái tội
viết sex ấy là phản động, đồi trụy, và người ta tống giam tác giả. Một người
anh trai của Kim Anh cất công ra Hà Nội, tìm đến nhà riêng Vũ Tú Nam kêu cứu.
Cho dù Kim
Anh chưa phải là hội viên Hội Nhà văn, nhưng sau khi đọc tác phẩm Lãng đãng
sương mù và bức xúc trước hoàn cảnh bị giam cầm của tác giả, Vũ Tú Nam đã cùng
với Bộ trưởng Bộ Văn hóa Trần Hoàn tác động từ trung ương đến tỉnh, thương
thuyết, tháo gỡ.
Cuối cùng
thì Kim Anh đã được thả. Nhưng dẫu sao cũng đáng tiếc: Những gì đã nếm trải
khiến Kim Anh kinh hãi cái món văn chương. Anh ta bỏ văn, bỏ ngành, đi làm luật
sư.
Rồi tiếp đến
cái vụ báo Văn nghệ cho đăng truyện ngắn Linh nghiệm. Khi ấy nhà thơ Hữu Thỉnh
làm Tổng biên tập. Nhưng vụ này được coi là nghiêm trọng, đích thân ông Tổng
thư ký Hội Nhà văn Vũ Tú Nam phải đi gặp các cơ quan hữu trách để giải trình.
Vũ Tú Nam
giải trình với họ y như ngày xưa ông nói về Cây táo ông Lành. Nhưng xem chừng,
Linh nghiệm gay cấn hơn Cây táo ông Lành nhiều. Kể ra đây nó dài dòng lắm. Vả,
cũng có những bất tiện.
Chỉ
xin tóm gọn lại như sau: Vũ Tú Nam và những người liên quan đến Linh
nghiệm vượt thoát được vụ này là nhờ cái uy của ông Tổng thư ký, mà cái uy ấy
chẳng phải từ điều gì cao xa mà nó ở như cái tâm cái đức của ông. Người ta nể
trọng ông là ở cái đức của ông.
Liền kề với
vụ Linh nghiệm là vụ Nỗi buồn chiến tranh, và đây mới là vụ Vũ Tú Nam phải lao
tâm khổ tứ nhiều. Tiểu thuyết Nỗi buồn chiến tranh sau khi được trao giải Hội
Nhà văn thì ý kiến khen cũng nhiều mà chê cũng lắm.
Có tới dăm
bảy tờ báo in bài phê phán, và không phải ý kiến nào cũng của những người bị
coi là bảo thủ. Người ta phê phán là có cái lý chính đáng của người ta. Điều đó
đặt ông Tổng thư ký Vũ Tú Nam vào một trạng huống rất khó xử.
Nhất là khi
người ta đồn thổi Nỗi buồn chiến tranh đang có danh sách ứng cử viên giải
Nô-ben (?!) thì Vũ tiên sinh càng bị cật vấn, bị “xoay” đến chóng mặt. Vũ Tú
Nam chỉ có thể giải thích rằng, ông làm việc trên nguyên tắc dân chủ.
Việc trao
giải cho Nỗi buồn chiến tranh có sự nhất trí của Ban chấp hành Hội. Nỗi buồn
chiến tranh không phải là tác phẩm toàn bích, nhưng cũng không phải là tác phẩm
bôi nhọ chiến tranh cách mạng và tác giả là người lính từng xả thân ở chiến
trường...
Đại khái Vũ
tiên sinh đã giải trình như thế. Rồi thời gian trôi đi. Vụ việc cũng lắng dần.
Nỗi buồn chiến tranh có đời sống độc lập của nó, người ta nhận ra chân giá trị
của nó.
Rồi cái
nhiệm kỳ IV đầy ấn tượng ấy cũng đến hồi kết thúc bằng đại hội nhà văn lần thứ
V. Sau đại hội này, Vũ Tú Nam nghỉ hưu. Nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm lên thay.
Người viết bài này có vinh dự được ngồi ở bàn của đoàn thư ký, có nhiệm vụ ghi
chép tất cả những diễn biến trong đại hội nên cũng biết được một số chuyện.
Trở lại đại
hội IV, sau khi Vũ Tú Nam đắc cử, có mấy đại biểu gặp nhà văn Vũ Tú Nam tay bắt
mặt mừng nói: Đúng là sinh ra Vũ Tú Nam để làm Tổng thư ký nhiệm kỳ này, cứ như
là thiên định vậy. Kết thúc nhiệm kỳ, vào đại hội V, có những đại biểu nói với
Vũ tiên sinh, giọng tếu táo: Trông bác hiền khô thế mà chỉ huy trận mạc cũng
đáo để ra phết. Chúc mừng Văn Ngan tướng công!
Cùng một
chuyến hồi hương với ba anh em đều là văn sĩ, thi sĩ mà trong bài viết này tôi
chỉ nói về hai người, có gì đó như không phải với bác Vũ Ngọc Bình, một cái đốt
giữa, một cái cầu nối giữa Vũ Cao và Vũ Tú Nam. Nhưng tôi tin, cứ xem ý tứ của
bài viết, hẳn bác Vũ Ngọc Bình sẽ thể tất cho tôi.
Cổ Nhuế, Hà Nội
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét