Thứ Sáu, 28 tháng 10, 2016

Điểm diện 33: Chu Văn




33. Chu Văn
    (1922-1994)

Một con trâu bạc già nua
Nhờ cơn bão biển thổi lùa lên mây
Trâu ơi ta bảo trâu này
Quay về đất mới kéo cày cho xong.
                                  Xuân Sách

Bài tham khảo


NHÀ VĂN CHU VĂN
VÀ NHỮNG ỨNG XỬ THI CA

        Cuối năm 1967, tại nơi sơ tán của Ty Văn hoá Nam Hà, thôn Đức Bản, xã Nhân Nghĩa, huyện Lý Nhân, Hà Nam có một cuộc chia tay cảm động: tiễn nhà văn Chu Văn vào chiến trường. Người đi trong trang phục thời chiến bên dòng sông Châu tháng Chạp giá lạnh, gợi cái ý vị "Tiễn biệt bên sông Dịch": Thử địa biệt Yên Đan/ Tráng sĩ phát xung quan (Nơi này biệt Yên Đan/ Tóc tráng sĩ dựng ngược -Thơ Lạc Tân Vương). Giữa những đồng nghiệp, đồng chí vừa chuẩn bị xong số Sáng tác xuân Mậu Thân, Chu Văn xúc động đọc một bài thơ ứng tác "Chia tay":
                             "Chia tay nhằm thẳng nẻo tiền phương,
                              Hỏi lại lòng ai có vấn vương?
                             Việt Bắc gọi vào nơi tuyến lửa,
                             Miền Nam yêu dấu nghĩa quê hương.
                             Đánh giặc, giữ nhà, đôi gánh nặng,
                             Cây chông, ngòi bút một con đường.
                             Xa nhau là để gần nhau mãi,
                             Mưa nắng hề chi vượt dặm trường".
      Bài thơ ứng tác nói được cái chí của người từng trải cuộc kháng chiến chống Pháp, khi đất nước bước vào giai đoạn chiến đấu ác liệt chống chiến tranh phá hoại miền Bắc, chuẩn bị tổng tấn công giải phóng miền Nam. Thơ nói được tâm lý của các nhà văn, nghệ sĩ  lúc bấy giờ: "Dẫu một cây chông trừ giặc Mỹ/ Hơn nghìn trang giấy luận văn chương" (Tố Hữu).
     Chu Văn đến chiến trường. Trong chuyến đi thực tế dài ngày tại các vùng trọng điểm mặt trận Đông Trường Sơn với đoàn văn nghệ sĩ Phòng Văn nghệ Quân đội: Chính Hữu, Hải Hồ, Ngô Văn Phú, Sĩ Hanh, Trọng Khoát, Vũ Minh, Đồng Văn Thuyết..."nhà văn dân sự" Chu Văn nhanh chóng thích nghi như một chiến binh thực thụ. Những lần bị vây, những lần bị bom đạn rượt đuổi, những lần mưa lũ lở núi, sạt hầm hút chết. Ông cũng có dịp chia sẻ miếng lương khô, hớp nước cuối trong bi đông với cán bộ, chiến sĩ nơi trận mạc để được thực mục sở thị bộ mặt chiến tranh tàn bạo của kẻ xâm lược. Ông thay mặt Tỉnh uỷ Nam Hà đến uý lạo lực lượng thanh niên xung phong ở chiến trường. Dọc đường Trường Sơn, ông hai lần thay mặt Tỉnh uỷ tặng quà, động viên anh chị em cán bộ diễn viên văn công xung kích phục vụ chiến trường, đoàn Chèo Nam Hà, tại binh trạm Đoàn 559. Gần một năm có mặt ở chiến trường khu V, ông may mắn không bị "dính" bom, pháo nhưng ra Bắc hàng năm còn bị những cơn sốt rét rừng hành hạ.
    Năm 1974, nhà văn Chu Văn còn đi thực tế chiến trường một chuyến nữa, vào Phước Long, miền Đông Nam Bộ, trong đoàn công tác của Tỉnh uỷ Nam Hà. Chuyến đi theo tuyến Tây Trường Sơn thuận lợi hơn, ông không quên bài thơ nhà viết kịch Tào Mạt chia tay ông ở một binh trạm Đông Trường Sơn ngày nào:  
TẶNG CHU HUYNH
                             Chấp Kim Tinh bút hướng Nam dao,
                             Đông hải minh thiên khởi nộ đào.
                             Bác viết :"Văn nhân giai chiến sĩ",
                             Dục vi Quan Vũ tất huy đao.
                                                                        Tào Mạt
      Bài thơ chữ Hán, thủ bút của Tào Mạt năm 1967 đưa tặng nhà văn, mãi đến năm 1992, tạp chí Văn nghệ Hà Nam Ninh tổ chức trang "Mừng thọ nhà văn Chu Văn 70 tuổi" ông mới đưa in (cùng bản "tạm dịch" của Phạm Trọng Thanh):
                             TẶNG ANH CHU VĂN
                             Dắt bút Kim Tinh kịp chuyến vào,
                             Dậy trời sóng giận bể dồn cao.
                             Bác nói:"Nhà văn là chiến sĩ",
                             Muốn làm Quan Vũ phải hoa đao.
     Với nhà văn Chu Văn, trong mỗi chuyến đi ấy, trang sổ tay của ông càng đầy lên những ý đồ sáng tác, những hình tượng trong chiến đấu, không thể ngồi ở nhà mà "bịa" được. Những năm tháng ấy thuộc về sự dũng cảm của nghĩa lớn, khí phách và tâm hồn của một thời oanh liệt. Chất liệu thực tế ngồn ngộn, vốn sống dày dặn, tài năng văn chương cất cánh, ông là nhà văn thành đạt chậm nhưng vững chãi, bề thế với những tác phẩm: Bão biển, Đất mặn, Giáp mặt, Sao đổi ngôi, Mây thành (tiểu thuyết); Con đường lầy, Cô lái đò sông Ninh, Ánh sáng bên hàng xóm, Hương cau hoa lim, Bông hoa trắng, Mùa chim phượng bay về,Tiếng hát trong rèm, Ngọc tương tư (truyện ngắn); Tiếng hát trên sông (bút ký),Tuyển tập Chu Văn... "Nhà văn chiến sĩ" Chu Văn được Nhà nước tặng thưởng Huân chương Độc lập hạng Ba năm 1989 và truy tặng giải thưởng Nhà nước (đợt I) năm 2001, lúc ông qua đời vừa đúng 7 năm.
     Thành đạt ở tiểu thuyết, truyện ngắn... nhưng nhà văn Chu Văn lại khởi sự văn nghiệp từ thi ca. Xuất thân trong một gia đình Nho học ở Đông Quang, Đông Hưng, Thái Bình, Chu Văn có một thời hoa niên thích làm thơ, xem chèo, diễn kịch. Khi trở thành cán bộ hoạt động cách mạng ở Thái Bình, Hải Phòng, Nam Định thì cái sở thích thuở thiếu niên lại trở thành phương tiện cho công tác tuyên truyền. Tác phẩm đầu tay của Chu Văn là truyện thơ "Ai qua Phát Diệm". Ông còn viết vở chèo "Cô gái làng Dương", được dàn dựng và được Văn nghệ in năm1955.Truyện thơ của ông là chuyện chống cưỡng ép di cư năm 1954, được phổ biến và khơi mào cho các truyện thơ ra đời ở Nam Định sau đó: "Cô gái tóc trắng" (Bạch Mao Nữ) của Trần Tường,"Lấn biển Đông" của Kim Ngọc Diệu...
      Năm 1962, đoàn Chèo Nam Định đưa điệu thức "cung văn hầu bóng" thành tiết mục hát văn. Và người soạn lời mới cho tốp nữ múa hát là nhà văn Chu Văn. Tiết mục thành công rực rỡ trên sàn diễn. Riêng tôi, mỗi lần nghe lại tiếng đàn nguyệt của nghệ sĩ Thế Tuyền, giọng hát văn của tốp nữ do nghệ sĩ Kim Liên lĩnh xướng năm ấy, tôi thấy lòng mình nhuần thắm lại:
                             Hỡi cô thắt dải lưng xanh
                             Có về Nam Định với anh thì về.
                             Dạt dào gió lượn ven đê,
                             Đồng thơm hương cốm, cây che rợp làng.
                             Biển xanh, cá bạc, tôm vàng
                             Buồm căng lộng gió thênh thang ra vào
                             Sông Ninh, sông Đáy, sông Đào
                             Phù sa lớp lớp nao nao sóng dồi
                             Chiều trưa vang dậy tiếng còi
                             Đường xưa bến Vị, non Côi nượp người...
                                               ( Nam Định quê tôi -1962 )
     Với cương vị Tổng biên tập Tập san Sáng tác của Ty Văn hoá Nam Hà rồi Tổng biên tập tạp chí Văn nghệ Hà Nam Ninh, chủ tịch Hội đồng Tủ sách Quê hương...cách "điều binh khiển tướng" của ông cũng thật đáng nể. Từ lúc dựng đề cương, phân công viết, đặt bài, phân công biên tập... đến ngày tổng duyệt, nhất nhất mọi việc đều có tâm lực của ông. Thiếu bài thì viết bổ sung, có khi viết lại cả một bài dài mà không cần đứng tên.Thơ xuân, câu đối Tết, nhiều phen ông Tổng biên tập phải "bù" dưới các bút danh Thạch Mã, Kim Mã, Nghĩa Thanh...
      Còn đó những vế mời đối, thách đối của Thạch Mã, Kim Mã ...bao năm chưa có người đối được.Trên số Tết năm 1970 tập san Sáng tác Nam Hà, nói về Bác kính yêu sau ngày Bác đi xa:
          Người là Cha, là Bác, là Anh
          Chết như sống anh hùng vĩ đại !
      Nhà văn ghép hai câu thơ Tố Hữu trong bài "Sáng tháng Năm" và trong bài "Hãy nhớ lấy lời tôi" để mời đối. Hay như vế thách đối đầu năm 1967 (trên tập san Sáng tác Nam Hà), đùa các chiến sĩ phòng không (cao xạ pháo, tên lửa), ông viết: Tiểu đội phòng không, mười hai cậu đều không có vợ!
     Thuộc thơ Việt, thơ Đường, thơ Pháp, Chu Văn là người biết làm giàu vốn hiểu biết của mình, chủ yếu là tự học.Tiếng Pháp đủ để giao tiếp, chữ Hán đủ để đọc các nguyên bản. Ngoài sáu mươi tuổi, ông còn theo học tiếng Anh khá chăm chỉ. Đọc sách và nhớ sách. Ông yêu thi ca, niềm yêu của một trí thức Nho học, tâm đắc câu nói của Khổng Tử: "Hứng ư thi, lập ư lễ,thành ư nhạc" (Hứng khởi trước điều thiện là nhờ thi ca, đứng vững trước mọi việc đời là nhờ ở lễ và hàm dưỡng được nội tâm chính đáng là nhờ ở sự hài hoà của âm nhạc).
      Thơ ông viết, có lẽ sự chú tâm đầu tiên là khí chất toàn cục? Ở bài Xuân đề, nguyên tác chữ Hán, in trên "tờ hoa" tập san Sáng tác Nam Hà số Tết Bính Thìn (1976), mừng đất nước thống nhất, ông viết:
                             Vạn lý đào hoa tiếp cẩm vân,
                             Sơn hà phong cảnh tổng hồi xuân.
                             Tứ thiên niên quốc trùng hưng hội,
                             Thành dã ca thanh xứ xứ văn.
                                                         (Xuân đề- Nghĩa Thanh)
    Tác giả tự dịch:
                             ĐỀ THƠ XUÂN
                             Dặm xa, mây thắm hoa đào,
                             Non sông rầy đã bước vào hồi xuân.
                             Nông thôn, thành thị xa gần,
                             Hát mừng nước bốn nghìn năm vươn mình.
      Mùa xuân năm 1977, Hội Văn học Nghệ thuật Hà Nam Ninh nhận một yêu cầu "đền ơn đáp nghĩa" do Ty Thương binh -Xã hội đề xuất. Tỉnh cần có thơ, câu đối làm thành hai bức trướng kính viếng các liệt sĩ tại nghĩa trang liệt sĩ Trường Sơn.Còn nhớ, tại trụ sở Hội sớm xuân ấy tề tựu đủ cán bộ biên tập, sáng tác của cơ quan. Đồng chí cán bộ Ty Thương binh-Xã hội, nhà văn Chu Văn chủ tịch Hội, nhà viết kịch Hồng Vũ, phó chủ tịch Hội lần lượt phát biểu, nêu ý tưởng,chủ đề. Một cuộc "Phát động sáng tác" bắt đầu và thời hạn chỉ có một tuần thôi, tất cả chúng tôi cùng vào cuộc. Đến hẹn, chúng tôi cùng nộp bài, một cuộc bình văn do nhà văn Tổng biên tập chủ trì khá sôi nổi. Điều đáng nói là thơcâu đối đã chọn đều được chủ và khách hài lòng.
       Câu đối được chọn (của nhà thơ Vũ Quốc Ái):
                   Đất nước nhớ anh hùng, hồn vang động trống đồng Ngọc Lũ,
                   Quê hương ơn liệt sĩ, tên sáng ngời bia đá Trường Sơn !
      Bài thơ được chọn (của nhà văn Chu Văn):
                             Trai tài, gái giỏi Hà Nam Ninh,
                             Nghĩa Đảng, tình dân, hiến trọn mình!
                             Tiếng hát Trường Sơn muôn thuở vọng,       

                                Ngời trang sử mới ánh bình minh.
      Nhà văn Chu Văn là người quí trọng nhân tài. Mùa thu năm 1970, tại thành phố Nam Định còn ngổn ngang công sự và ụ pháo phòng không, Ty Văn hoá Nam Hà tổ chức Lễ kỷ niệm 100 năm, ngày sinh nhà thơ Trần Tế Xương (1870-1970), có sự tham gia của Viện Văn học và Hội Nhà văn Việt Nam. Là Trưởng Ty Văn hoá, ông đứng ra lo liệu mọi việc cùng với cán bộ của nhiệm sở, các cố lão Vị Xuyên và thân tộc nhà thơ. Lần đầu tiên, một lễ kỷ niệm danh nhân văn học quê hương được tiến hành thật trang trọng. Sự nghiệp thi ca của nhà thơ thành Nam được nhìn nhận,đánh giá một cách thoả đáng, góp phần khẳng định Trần Tế Xương là nhà thơ lớn của dân tộc, giai đoạn lịch sử cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX. Phần mộ nhà thơ dời từ Cồn Vịt về công viên Vị Xuyên. Tuyển tập Thơ Trần Tế Xương 100 bài được biên khảo, hiệu đính, xuất bản với bài tiểu luận xuất sắc"Đọc thơ Tú Xương" của nhà thơ Xuân Diệu cùng Lời giới thiệu của nhà văn Chu Văn. Ông viết: "Xã hội thực dân phong kiến với các thứ rác rưởi, chướng tai gai mắt từng làm rầy nhà thơ lớn Trần Tế Xương đã  dứt khoát trôi đi không bao giờ còn trở lại... Trần Tế Xương vẫn sống mãi trong tâm hồn người Nam Định. Nhà thơ lớn là niềm tự hào, như người ta vẫn tự hào về lịch sử oai hùng của địa phương còn ghi trong các văn bia nơi chùa Phổ Minh, đền Cố Trạch. Cả một nền văn học đất Sơn Nam, xây dựng từ bao đời với những tru cột vững vàng như Nguyễn Khuyến,Trần Tế Xương, được bồi đắp, xây dựng thêm, đã đóng góp được những người như Nam Cao... và sau này với vị trí quan trọng của tỉnh Nam Hà, nền văn học đó còn rực rỡ biết bao nhiêu nữa".
    ..."Chúng ta không đòi hỏi ở Trần Tế Xương những gì mà ông không có. Riêng mặt cống hiến về văn học của nhà thơ thiên tài ấy đã đủ làm vinh quang cho quê hương non Côi, sông Vị". (Trích lời giới thiệu Tuyển tập Thơ Trần Tế Xương, Ty Văn hoá Nam Hà, 1970, tr. 9).
      Mùa xuân năm 1985, nhân kỷ niệm 150 năm sinh Tam nguyên Yên Đổ Nguyễn Khuyến, Hội Văn học Nghệ thuật Hà Nam Ninh phối hợp với Viện Văn học và Trường Đại học Sư phạm Hà Nội I tổ chức Hội thảo Khoa học về thân thế, sự nghiệp nhà thơ. Hội thảo đã quy tụ nhiều nhà nghiên cứu văn học, cán bộ giảng dạy, các giáo sư, học giả hàng đầu toàn quốc về thành phố Nam Định. Nhiều tham luận chuẩn bị công phu, đóng góp những nhận định sâu sắc về vị trí, tài năng của Nguyễn Khuyến trong nền văn học Việt Nam. Tuy nhiên, tại hội thảo, cũng có những "lập luận" phát sinh mâu thuẫn làm cho các nhà tổ chức những ngày cuối cảm thấy bối rối vì xu hướng phân tán, có thể dẫn đến việc hội thảo không thành công, không đạt được mục đích.
      Nhà văn Chu Văn được phân công tổng kết hội thảo. Sau một đêm chong đèn chấp bút, bản báo cáo tổng kết của ông khi đọc lên, mọi người đều thấy năng lực tổng hợp, phân tích rất vững vàng, thấu lý, đạt tình. Báo cáo tổng kết Hội thảo Khoa học về nhà thơ Tam nguyên Yên Đổ Nguyễn Khuyến của Chu Văn đã đánh giá một cách khoa học, xác đáng với tất cả các bản tham luận, các ý kiến trao đổi của các nhà nghiên cứu, những thẩm định thấu đáo, công bằng của các học giả. Báo cáo tổng kết hội thảo dẫn đến việc mọi người đồng thuận thừa nhận vị trí xứng đáng của cụ Tam nguyên Yên Đổ trong lịch sử văn học Việt Nam. (Xin đọc thêm Thi hào Nguyễn Khuyến đời và thơ -Viện Văn học- Nguyễn Huệ Chi chủ biên- NXB Giáo dục, Hà Nội,1994).
      Cùng năm 1985, Hội Văn học Nghệ thuật Hà Nam Ninh, Nhà xuất bản Văn học tiến hành liên kết xuất bản Tuyển tập Nguyễn Bính sau hai mươi năm vắng bóng thi nhân.Việc làm thủ tục xuất bản tưởng không có khó khăn gì. Thế nhưng việc "đưa" Nguyễn Bính trở lại với bạn đọc trong Nam, ngoài Bắc đã có những vướng mắc phải tháo gỡ. Chính nhà văn Chu Văn đã "gõ cửa những người có trách nhiệm ở Trung ương và địa phương" để Tuyển tập Nguyễn Bính đến với bạn đọc năm 1986, làm nên một "hiện tượng xuất bản" thời điểm ấy. Cùng với "Lời giới thiệu" của nhà văn Tô Hoài, nhà văn Chu Văn đã viết "Lời bạt" với cả tấm lòng nhân hậu và quí trọng nhà thơ "Chân quê" Nguyễn Bính.
      "Ông cũng là người luôn quan tâm sâu sát tới các văn nghệ sĩ có hoàn cảnh khó khăn. Ông trực tiếp đề xuất với lãnh đạo tỉnh để lão hoạ sĩ Nguyệt Hồ được sửa chữa gian nhà cho cao ráo, sáng sủa hơn, cùng nghệ nhân ca trù Đặng Thị Sim có một khoản trợ cấp giảm bớt khó khăn cuộc sống. Ông trực tiếp can thiệp với người có trách nhiệm để mẹ con bà Trần Thị Lai, vợ nhà thơ Nguyễn Bính có chỗ ở yên ổn. Cuối năm, ông nhắc nhở Văn phòng Hội có quà thăm hỏi gia đình nhà văn Nam Cao, mẹ nhà văn Nguyễn Thi và một số văn nghệ sĩ có hoàn cảnh khó khăn. Hàng năm vào dịp Tết, cơ quan Hội tổ chức họp mặt gia đình anh chị em cán bộ công nhân viên cơ quan. Chẳng mâm cao cỗ đầy gì, nhưng là một dịp để mọi người được sum họp trong không khí gia đình ấm áp". (Lương Đức Vinh - "Nhà văn Chu Văn, tôi đã từng ở gần ông"- Bài gửi tạp chíVăn nhân,2004).
      Lao động nghệ thuật nói chung, sáng tác thi ca nói riêng, là những ứng xử văn hoá."Văn tức là người".Với nhà văn Chu Văn - vị Tổng biên tập uy tín của tạp chí Văn nghệ Hà Nam Ninh đã quá cố, những ứng xử cho thấy "một cốt cách tâm hồn nhà văn - kẻ sĩ đáng trọng", đúng như lời nhà thơ Nguyễn Bính sinh thời đã nói về ông.


Phạm Trọng Thanh
(Rút trong tập Thức cùng trang viết - NXB Hội Nhà văn, 2008) 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

ĐẾM TIỀN

Ông ngồi giương kính đếm tiền Đồng tiền mỏng thế mà liền với xương Tiền này là khoản tiền lương Là tiền năm tháng chiến trường cho ta ...