32. Thanh Tịnh (1911-1988)
Bao năm ngậm ngải tìm trầm
Giã từ quê mẹ xa dòng Hương giang
Bạc đầu mới biết lạc đường
Tay không nay lại vẫn hoàn tay không
Mộng làm giọt nước ôm sông
Ôm sông chẳng được tơ lòng gió bay.
Xuân Sách
-Ngậm ngải tìm trầm : truyện ngắn 1943
-…
Bài tham khảo
Nhà thơ Thanh Tịnh 'giấu niềm
đau vui sống với đời'
Rất nhiều câu chuyện và những kỷ niệm về nhà thơ Thanh
Tịnh được đồng nghiệp, anh em bạn bè kể lại trong lễ kỷ niệm 100 năm ngày sinh
của ông (1911 - 2011) do Hội Nhà văn Việt Nam tổ chức.
Nguyễn Xuân
Thủy -
“Gương mặt
phôi pha” là từ mà nhà phê bình Hồng Diệu dùng để miêu tả về Thanh Tịnh. Vốn là
quân của Nhà số 4 (Tạp chí Văn nghệ Quân đội) nên Hồng Diệu có nhiều kỷ
niệm với nhà thơ Thanh Tịnh. Thế nhưng, cũng giống như nhiều tác giả trẻ khác
khi về công tác tại Nhà số 4, Hồng Diệu cũng rụt rè, thường đứng từ xa ngắm
nhìn chứ không dám lại gần, cái khoảng cách cần thiết cho một sự kính trọng.
Quả tình, nếu nhìn những bức chân dung ít ỏi còn lại của Thanh Tịnh với chất
lượng không được tốt, ai cũng có thể cảm nhận giống như nhà phê bình Hồng Diệu.
Nhà văn
Nguyễn Khắc Trường chưa từng được sống và làm việc cùng Thanh Tịnh dưới mái nhà
số 4, bởi khi ông về công tác thì Thanh Tịnh đã thôi làm quản lý tại đây, nhưng
có một chi tiết về Thanh Tịnh do nhà văn Nguyễn Khải kể lại khiến ông ám ảnh
đến tận hôm nay. Nguyễn Khải kể với Nguyễn Khắc Trường rằng, bình thường Thanh
Tịnh rất điềm đạm, ít luận bàn về văn chương của anh em, thậm chí là của các
đàn em nhưng những lời ông nói ra đều khiến người khác phải nể phục. Ngày ấy,
dù Nguyễn Khải đã viết rất nhiều và có dư luận tốt nhưng chưa khi nào thấy
Thanh Tịnh nhận xét về văn của Nguyễn Khải. Cho đến một lần, khi Nguyễn Khải in
truyện ngắn “Sự ra đi của người con” Thanh Tịnh mới bảo: “Khải đã bắt đầu thành
nhà văn rồi đấy, nhà văn là phải có giọng riêng”. Câu trao đổi ngắn ấy đã khiến
Nguyễn Khải nhớ cả đời và luôn kể lại với anh em viết văn mà Nguyễn Khắc Trường
cũng là người được nghe. Nguyễn Khắc Trường nói rằng, “thời gian ở nhà số 4,
bên những tên tuổi lớn, tôi nghiệm ra rằng mình đã học được từ các anh cách
sống nhiều hơn là cách viết”.
Năm 1946, từ
Huế, Thanh Tịnh ra Việt Bắc họp Đại hội Văn hóa, đúng thời điểm ấy diễn ra Toàn
quốc kháng chiến, ông đi theo cách mạng, cũng từ đó, chiến tranh đã chia cắt
ông với quê hương, gia đình. Năm 1954, miền Bắc hòa bình, ông về phụ trách tờ Văn
nghệ Quân đội và gắn bó với mảnh đất Thủ đô đến cuối đời. Những bạn văn
sống cùng thời, những anh em văn nghệ sĩ từng có dịp sống gần Thanh Tịnh đều
hiểu hoàn cảnh của ông. Chuyện riêng của Thanh Tịnh còn buồn hơn bất cứ trang
văn nào. Quê hương ở Huế, nhưng cả phần sau của cuộc đời ông sống trên đất Bắc.
Huế trong ông gắn liền với những hoài niệm buồn thương day dứt. Năm 1975, đất
nước thống nhất, bao gia đình, bao người con kháng chiến vui với niềm vui
chung, vui với niềm vui sum họp thì Thanh Tịnh không còn nơi để trở về. Do hoàn
cảnh chia cắt và điều kiện bất khả kháng của những năm tháng quê hương trong
lòng địch, vợ ông đã sống cùng một sĩ quan cộng hòa.
Tại lễ kỷ
niệm 100 năm ngày sinh Thanh Tịnh, PGS.TS Lưu Khánh Thơ (Viện Văn học) nói:
“Đất nước 30 năm chiến tranh, bao con người phải chịu nỗi đau chia cắt, nhưng
số phận Thanh Tịnh bi đát vào bậc nhất. Có gia đình vợ con từ sớm nhưng hầu như
suốt đời ông chịu cảnh “ăn cơm tập thể nằm giường cá nhân” (chữ của Thanh
Tịnh). Chị ngậm ngùi chia sẻ, “trong số những người chịu ngang trái về mặt tình
cảm phải chịu cảnh cô đơn trong giới văn nghệ sĩ thì trường hợp của Thanh Tịnh là
kéo dài lặng lẽ và xót xa hơn cả”. Sau khi đất nước thống nhất, Thanh Tịnh chỉ
về Huế duy nhất một lần, và việc làm duy nhất trong lần về Huế ấy là viết đơn
xin bảo lãnh cho người chồng sau của vợ. Một đại tá cách mạng bảo lãnh cho một
đại tá chế độ cũ vì một người phụ nữ mà họ yêu thương. Sau đó ông lại ra đi để
lại sau lưng vợ con cùng một phần ký ức.
Nhà văn
Hoàng Minh Châu, người có thời gian sống gần với Thanh Tịnh từ những năm trước
cách mạng kể lại rằng, Thanh Tịnh lúc nào cũng vui vẻ, hài hước, ít khi để
người khác thấy tâm trạng của ông. Có lần, sau một sự kiện rất vui vẻ, Thanh
Tịnh nói với Hoàng Minh Châu, “Châu ơi, đừng tưởng mình cười nói vui vẻ thế là
mình không có chuyện gì buồn nhé…”. Vốn kiệm lời và ít nói về mình, ông cũng
chỉ dừng ở đấy. Hai bài học mà Hoàng Minh Châu rút ra từ cuộc đời Thanh Tịnh đó
là niềm yêu đời, dù khó khăn mất mát, dù chuyện riêng tư có buồn đến thế nào
thì Thanh Tịnh vẫn dành cho cuộc đời niềm lạc quan, vui sống; thứ hai, thơ văn
của Thanh Tịnh trữ tình mà gần gũi như lời ăn tiếng nói của quần chúng, như hò
vè ca dao, vì thế, đừng quên tiếng nói của công chúng.
Có rất nhiều
câu chuyện, rất nhiều giai thoại mà anh em văn nghệ Nhà số 4 đến nay vẫn lưu
truyền về nhà thơ Thanh Tịnh, trong đó có một kỷ niệm đến bây giờ nhớ lại vẫn
khiến nhiều người rơi nước mắt. Những năm khó khăn, các nhà văn nhà thơ ở Nhà
số 4 phải làm thêm bằng việc dán bìa các tông thành các hộp giấy, cuộc sống văn
nghệ sĩ cơ cực muôn phần. Cuối năm ấy cơ quan được phân mỗi người một cân thịt
lợn. Tất cả xì xụp ngồi rán phần của mình thành mỡ để mang về, đến lượt một nhà
thơ trẻ, do đãng trí hay không có kinh nghiệm, nên khi rán xong đã đổ ngay mỡ
đang sôi vào chiếc can nhựa, lúc sau quay lại thì thấy chiếc can đã nhũn ra, mỡ
chảy hết. Cái Tết đã cận kề, nghĩ đến vợ con, vừa giận mình, vừa tủi, nhà thơ
trẻ ngồi khóc. Thanh Tịnh đi qua nhìn thấy bèn mang suất của mình đưa cho nhà
thơ trẻ. Rất nhiều năm sau, nhà thơ ấy vẫn kể lại và cứ ân hận mãi là “không
hiểu sao lúc ấy tôi lại cầm suất thịt của Thanh Tịnh, tại sao tôi không nghĩ ra
là tiêu chuẩn Tết thì ai cũng phải ăn, ai cũng phải sử dụng…”. Thanh Tịnh là
thế, dù không nói nhưng nhìn vào cách cư xử của ông khiến người khác phải kính
nể.
Cả cuộc đời
Thanh Tịnh cống hiến cho văn nghệ cách mạng. Suốt một thời gian dài ông gắn bó
với ngôi nhà số 4, gác gôn một trong những địa chỉ văn chương uy tín của đất
nước, ông còn hết lòng tham gia công tác Hội Nhà văn. Thanh Tịnh đã sống đến
những ngày cuối đời tại mảnh đất Thủ đô và mất vào ngày 17/7/1988. Đến năm
1991, ông đã được những anh em đồng đội ở Nhà số 4 đưa về an nghỉ dưới chân núi
Thiên Thai, phía Tây thành phố Huế.
Tại lễ kỷ
niệm 100 năm ngày sinh nhà thơ Thanh Tịnh, Đại tá nhà văn Ngô Vĩnh Bình - Tổng
biên tập Tạp chí Văn nghệ quân đội, nơi Thanh Tịnh đã có nhiều năm tháng
gắn bó - đã bùi ngùi thông báo, trước đó một tuần, ông có điện cho con trai nhà
thơ Thanh Tịnh là ông Trần Thanh Vệ đang sống ở Huế để mời ra dự lễ kỷ niệm
nhưng vì một lý do khá đặc biệt ông Vệ không thể có mặt tại Hà Nội. Lý do ấy
là, mẹ ông - người vợ duy nhất của nhà thơ Thanh Tịnh - vừa mất. Đó là một sự
trùng hợp rất lạ, khi bà ra đi đúng vào dịp kỷ niệm 100 năm ngày sinh của ông.
Nhà thơ
Thanh Tịnh tên thật là Trần Văn Ninh, sinh ngày 12/12/1911 tại xã Dương Nỗ,
huyện Phú Vang, Thừa Thiên - Huế. Ông là tác giả của phong trào Thơ mới
cùng với những nhà thơ mở đầu như Thế Lữ, Lưu Trọng Lư... Nhiều sáng tác thơ
văn của ông được đưa vào sách giáo khoa, trong đó có bài “Tôi đi học” được
nhiều thế hệ học sinh nhớ mãi. Sau Cách mạng tháng Tám, ông gia nhập Quân đội
và trở thành nhà văn khoác áo lính. Thanh Tịnh nguyên là Đại tá, Chủ nhiệm tạp
chí Văn nghệ quân đội. Ông cũng là hội viên sáng lập Hội Nhà văn Việt
Nam, và là ủy viên Ban chấp hành Hội Nhà văn Việt Nam khóa I, II.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét