Thơ Đường nhân chuyến thăm Cố Đô
Sau chuyến đi Huế vào dịp
trung thu năm Bính Tuất, Đặng Văn Sinh ngẫu hứng làm mấy bài thơ chữ Hán theo
thể Đường luật, trong đó có một bài ngũ ngôn tứ tuyệt, ba bài thất ngôn tứ
tuyệt và một bài thất ngôn bát cú, nhằm ghi lại cảm xúc của mình trên hành
trình vào thăm Cố đô:
Đặng Văn Sinh
Bài
1
渡大靈江
鄧 文 生
此 地 前 朝 曾 血 戰
戈 矛 影 照 黯 愁 雲
至 今 客 到 靈 江 上
往 事 回 頭 憶 古 人
大 靈江, 秋 月,丙 戌 年
Phiên âm:
Độ Đại Linh giang(1)
Thử địa tiền triều tằng huyết chiến
Qua mâu ảnh chiếu ảm sầu vân
Chí kim khách đáo Linh Giang thượng
Vãng sự, hồi đầu ức cổ nhân.
Đại Linh giang, thu
nguyệt, Bính Tuất niên
Dịch nghĩa:
Qua sông Gianh
Đất này triều trước đã từng là nơi huyết chiến
Ánh giáo gươm chiếu lên làm tối đám mây buồn
Đến nay khách viếng thăm sông Gianh
Ngoảnh đầu nghĩ đến chuyện cũ, nhớ người xưa.
Sông Gianh, mùa thu, năm Bính Tuất
Dịch thơ:
Xưa từng huyết chiến nơi đây
Ánh gươm chém lóe làm mây tối rầm
Sông Gianh giờ khách đến thăm
Ngoảnh đầu lại nhớ những năm tháng buồn
Sông Gianh, mùa thu, năm Bính Tuất
Đỗ Đình Tuân (Dịch thơ)
Bài 2
古 城 廣 治
鄧 文 生
廣 治 荒 城 絕 鷓 鴣
風 吹 舊 塚 颭 葦 蘆
誰 知 死 士 亡魂 恨?
"一 將 功 成 萬 骨 枯".
廣 治,丙 戌 年,仲 秋,初 七日
Phiên âm:
Cổ thành Quảng Trị
Quảng Trị hoang thành tuyệt giá cô(2)
Phong xuy cựu trủng chiểm vi lô
Thùy tri tử sĩ vong hồn hận?
"Nhất tướng công thành vạn cốt khô".
Quảng Trị, Bính Tuất niên, trọng
thu, sơ thất nhật
Dịch nghĩa:
Thành cổ Quảng Trị
Thành hoang Quảng Trị đã hết loài chim đa đa
(Chỉ có) gió thổi làm lung lay đám lau sậy trên những ngôi mộ cũ
Nào ai biết vong hồn tử sĩ còn vương hận?
Một tướng làm nên chiến công phải đổi bằng vạn sinh mạng.
Quảng
Trị, ngày mồng 7, tháng 9, năm Bính Tuất
Dịch thơ:
Thành hoang Quảng Trị vắng đa đa
Mộ cũ lau trùm gió thổi qua
Vương hận ai hay hồn tử sĩ
Một công tướng đổi vạn hồn ma.
Quảng Trị, ngày mồng 7, tháng 9, năm Bính
Tuất
Đỗ Đình Tuân (Dịch thơ)
Bài 3
香 江 即 事
鄧文生
水 上 遊 船 溢 月 琴
香 江 幾 度 日 浮 沉
詩 人 才 女 愁 相 別
一 曲 南 平 淚 滿 襟
順 化,丙 戌 年,仲 秋,吉 日
Phiên âm:
Hương giang tức sự
Đặng Văn Sinh
Thủy thượng du thuyền (3) dật nguyệt cầm
Hương giang kỷ độ nhật phù trầm
Thi nhân, tài nữ sầu tương biệt
Nhất khúc Nam
Bình (4) lệ mãn khâm.
Thuận
Hóa, Bính Tuất niên, trọng thu, cát nhật
Dịch nghĩa :
Hương giang tức sự
Trên mặt nước, du thuyền đầy tràn tiếng đàn nguyệt
Đã bao lần mặt trời chìm nổi trên Hương giang
Thi nhân, tài nữ lưu luyến từ biệt nhau
Một khúc hát Nam Bình, nước mắt thấm ướt vạt áo.
Huế, ngày lành, tháng chín, năm Bính Tuất
Dịch thơ:
Thuyền đi
trên sóng nguyệt đàn
Mặt
trời chìm nổi Hương Giang bao lần
Biệt
nhau tài nữ thi nhân
Nam bình khúc
hát khôn cầm lệ rơi.
Huế, ngày lành, tháng chín, năm
Bính Tuất
Đỗ Đình Tuân (Dịch thơ)
Bài 4
千 樹陵 感作
鄧 文 生
殘 陽 留 故 塔
玉 殿 冷 無 燈
世 祖 今 何 在
猶 存 一 石 陵
千樹陵,丙 戌 年,仲 秋
Phiên âm:
Thiên Thụ(5) lăng cảm
tác
Đặng
Văn Sinh
Tàn dương lưu cố tháp
Ngọc điện lãnh vô đăng
Thế Tổ(6) kim hà tại
Do tồn nhất thạch lăng
Thiên Thụ lăng, Mậu Tuất niên, trọng thu
Dịch nghĩa :
Cảm xúc làm thơ về lăng Gia Long
Nắng chiều còn sót lại trên tháp cổ
Cung điện lạnh lẽo không ánh đèn
ĐứcThế Tổ bây giờ ở đâu?
Chỉ còn lại một tòa lăng đá.
Lăng
Thiên Thụ, tháng chín, năm MậuTuất
Dịch thơ:
Chiều tàn vương tháp cổ
Điện ngọc lạnh không đèn
Thế Tổ giờ đâu tá ?
Lăng đá nằm lặng yên.
Lăng Thiên Thụ, tháng chín, năm Mậu Tuất
Đỗ Đình Tuân (Dịch thơ)
Bài 5
謙 陵 前 有 感
鄧 文 生
謙 恭 記 在 石 碑 堂,
手留 名 一 帝 王
內 亂 京 城 人 餓 死,
外 侵 六 省 虜 封 疆
謙 恭 巧 語 欺 天 地,
嗣 德 自 誇 惑 四 方
聖 澤 頒 民 何 又 在,
回 頭 只 見 幾 災 殃.
順 化,謙 陵 前, 丙 戌 年,仲 秋
Phiên âm :
Khiêm lăng tiền hữu cảm
Đặng Văn Sinh
"Khiêm cung ký" (7) tại thạch bi đường
Ngự thủ lưu danh nhất đế vương
Nội loạn, Kinh thành nhân ngạ tử
Ngoại xâm, Lục tỉnh lỗ phong cương
"Khiêm cung" xảo ngữ khi thiên địa
"Tự Đức" (8) tự khoa hoặc tứ phương
Thánh trạch ban dân hà hựu tại?
Hồi đầu chỉ kiến kỷ tai ương.
Thuận Hóa, Khiêm lăng tiền, Mậu Tuất
niên, trọng thu
Dịch nghĩa:
Cảm nghĩ trước Khiêm lăng
Bài ký "Khiêm cung" đặt trong nhà bia
Là ngự bút lưu danh bậc đế vương
Nội loạn, tại Kinh thành người chết đói
Vùng Lục tỉnh, giặc ngoại xâm chiếm đóng
"Khiêm cung" là câu nói khéo nhằm dối trời đất
"Tự Đức" là lời khoe để mê hoặc thiên hạ
Ơn vua ban cho dân giờ ở
đâu?
Ngoảnh đầu chỉ thấy biết bao
nhiêu tai ương.
Huế,
trước Khiêm lăng, trọng thu, năm Mậu Tuất
Dịch thơ:
Bài ký “Khiêm cung” sáng những lời
Đế vương lưu bút gửi muôn
đời
Kinh thành nội loạn đói dân
chết
Lục tỉnh ngoại xâm chiếm đất
rồi
Câu nói “Khiêm cung” lừa dối
cả
Danh xưng “Tự Đức” hóa lòe thôi
Ơn vua ban phát nào đâu thấy
Chỉ thấy tai ương bức bách
người.
Huế,
trước Khiêm lăng, trọng thu, năm Mậu Tuất
Đỗ
Đình Tuân (dịch thơ)
Chú thích
(1) Tên chữ Hán của sông
Gianh là Đại Linh giang
(2) Một loài giống chim đa
đa (gà gô) trước chiến tranh thường gặp
ở thành cổ Quảng Trị, nay gần như đã
tuyệt chủng.
(3) Tác giả cùng một số bạn bè đi thuyền nghe
hát trên sông Hương
(4) Một làn điệu dân ca Huế
(5) Tên lăng vua Gia Long
(6) Niên hiệu vua Gia Long sau khi lên ngôi hoàng đế
(7) Bài ký tỏ ý khiêm tốn, cung
kính do vua Tự Đức soạn, được khắc vào bia đá để trong nhà bia tại Khiêm lăng.
(8) Niên hiệu của Hồng Nhậm sau
khi giết anh là Hồng Bảo rồi lên ngôi hoàng đế
Chủ nhật 19/10/2014
Đỗ Đình Tuân
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét