Một
cái cây là một thể thống nhất liên tục từ rễ đến ngọn. Nhưng trong nhận thức
chung của con người lại phân ra làm ba bộ phận: phần ngầm dưới đất gọi là gốc rễ,
phần từ mặt đất đến chỗ bắt đầu có sự phân nhánh gọi là thân, phần từ nhánh
cành gọi là ngọn…Sự phân loại đó là rất hợp lý nhưng cũng không thể bao gồm được
mọi loại cây. Không ít cây lại ra rễ ở ngọn, ra quả ngay tại rễ. Các loại dây
leo như bí ngô thì cứ bò một đoạn thân lại ra rễ bấm xuống đất để rồi lại ra
nhánh…cứ thế nó có dạng rễ thân lá cấp 1, rễ thân lá cấp 2, rễ thân lá cấp 3…Dẫn
ra thế để thấy rằng mọi sự phân loại đều chỉ là tương đối. Trong văn học nghệ
thuật thì sự phân loại càng phức tạp hơn, sự tương đối và cả sự nhập nhằng nữa càng
dễ thấy hơn. Tuy vậy nó cũng phải đạt đến một mức độ hợp lý nhất định để bạn đọc
có thể chấp nhận.
Theo
thông lệ xưa nay đã có những cách phân loại sau:
1.
Phân loại theo phân môn
Theo cách này người ta thường chia ra thành
hai sáng tác và nghị luận Trong sáng tác
lại có các phân môn như ký, truyện, thơ ca, kịch. Trong từng phân môn ấy lại tiếp
tục phân chia thêm nữa như ký thì có bút ký, phóng sự, ký sự, tùy bút, hồi ký…Bây
giờ lại có xu hướng gọi gộp chung các thể ký là tản văn hoặc tạp văn. Truyện
cũng có truyện ngắn mi ni (truyện cực ngắn), truyện ngắn, truyện vừa, truyện
dài…Thơ ca cũng vậy, người ta thường chia ra
thành ca vè và thơ. Loại văn vần thiên về kể việc như “Chùa Nam”,
Vè Bảo Đại” thì gọi là vè. Loại thơ thiên về biểu hiện tâm tư tình cảm và những
suy nghĩ của con người gọi là thơ trữ tình. Loại thơ cười vui hoặc phê phán
châm biếm gọi là trào phúng. Trong thơ trữ tình riêng cái mảng thể hiện tình
yêu lứa đôi giữa nam và nữ và đạt đến độ chuẩn mới được gọi là thơ tình. Dưới
chuẩn nghĩa là còn dễ dãi, thậm chí nhảm nhí, người đời tặng cho cái tên “thơ
huê tình”. Nghĩa là thơ ghẹo gái tán gái. Các loại văn sáng tác này gọi là văn chương.
Nghị luận văn học bao gồm tất cả
các loại bài nghiên cứu về văn học như lý luận văn học, phê bình giới thiệu tác
phẩm, sưu tầm phân loại tư liệu, chú giải, khảo dị (hoặc khảo đính)…thuật ngữ
chính xác của nó là “Văn học” (khoa học nghiên cứu về văn chương)
2.
Phân loại theo đề tài,
chủ đề
Chẳng
hạn trong văn chương người ta có thể
chia thành đề tài nông thôn, đề tài thành thị, đề tài miền núi, đề tài lịch sử,
đề tài chiến tranh cách mạng, đề tài phụ nữ…
Trong
văn học người ta có thể chia ra
thành các đề tài như đề tài Nguyễn Trãi, đề tài Nguyễn Du, đề tài Hồ Xuân
Hương…đề tài thơ mới, thơ chống Pháp thơ chống Mỹ…
Nói
tóm lại là theo kiểu này sẽ có rất nhiều tiêu chí
3.
Kết hợp hợp lý giữa theo
phân môn và theo chủ đề
Chẳng
hạn trong THƠ TRỮ TÌNH ta có thể
chia thành thơ tình (chủ đề tình yêu
nam nữ tiền hôn nhân):
Nửa chiều tìm về chốn cũ
Lang thang như người mộng
du
Chân trời hoàng hôn xuống
vội
Quê xưa liệu có người chờ
Nửa chiều tìm về chốn cũ
Mong thầm gặp lại người
xưa
Chân vừa chạm hờ trước
ngõ
Đã nghe tiếng trẻ chào
thưa…
Sông nước bao mùa vơi cạn
Người đi đâu hẹn ngày về
Em không dại khờ hóa đá
Nhìn nhau nói cười vô
tư…
(Chốn cũ- Nguyễn Chính)
Thơ đề vịnh (thường là tả cảnh ngụ
tình):
Vằng vặc
lưng trời ngọc thỏ trong
Thi nhân
ngồi viết trước thi phòng
Mây trôi
lãng đãng mây thành phượng
Cá
quẫy tưng bừng cá hoá long
Mải đọc vần
thơ Hằng cúi mặt
Mê nghe tiếng
sáo Cuội say lòng
Đêm thu
vàng rộm màu thu cảm
Thơ chửa
xong bài đã rạng đông
(Thu cảm-Tạ Anh Ngôi)
Thơ thế sự (các vấn đề về đời sống
xã hội):
Đi học thì CHẠY vào trường
Ra trường
CHẠY VIỆC,có lương CHẠY QUYỀN
Chạy gì
cũng phải mất tiền
Mất rồi
thì phải nghĩ liền cách xoay…
Mỗi người
như một con quay
Suốt đời
chạy tít – biết ngày nào yên
Mọi người
đều CHẠY NHƯ ĐIÊN
Mình mà
KHÔNG CHẠY – ĐỨNG YÊN LÀ ĐẦN !
(Chạy – Thanh Dạ)
…
Trong
THƠ TRÀO PHÚNG người ta cũng có thể chia nhỏ thêm: loại có nội dung phê phán
thói hư tật xấu gọi là thơ châm biếm :
Việt Nam “xứ
sở mộng mơ”
Mới đây xuất
hiện “nhà thơ nhập đồng”
Bao nhiêu
thi xã hãi hùng
Bao nhiêu
thi hữu lẫy lừng ngợi ca?
Chỉ buồn
công chúng xứ ta
Xem xong bịt
mũi cười khà…vậy thôi
Nay mai
mang đấm xứ người
Chẳng kêu
cũng gióng một hồi cho kêu (!)
(Thơ nhập đồng-Đỗ Đình Tuân)
Loại
không có mục đích phê phán chỉ gây cười mua vui thì gọi là khôi hài, nhưng gọi thơ vui là đúng nhất:
Đứa lớn đi rồi bé cũng
bon
Ông bà trơ lại vợ chồng
son
Khi không con mọn đời
đâu trẻ
Lúc đã răng thưa lợi
cũng mòn
Miếng thịt miếng bì tuy
chợn chụa
Câu thơ chén rượu vẫn
bùi ngon
Đố ai biết cái xuân xanh cũ
Liệu có âm thầm chịu héo
hon ?
( Vợ chồng son-Đỗ Đình Tuân)
Như vậy thì thơ trào phúng có thể chia thành hai loại "thơ châm" và "thơ vui".
Như vậy thì thơ trào phúng có thể chia thành hai loại "thơ châm" và "thơ vui".
Trên
đây là sơ qua một cách đại lược nhất về phân loại trong văn chương và văn học.
Cố nhiên là không có cách phân loại nào là thật sự rạch ròi được cả mà cách nào,
kiểu nào cũng đều có sự đan xen chồng lấn lẫn nhau. Bởi trong thực tế tồn tại
có sự phân loại đâu. Các hiện tượng trong thế giới khách quan đều phát triển
theo một quá trình liên tục. Có điều để nhận biết được bản chất của hiện tượng tư
duy con người cần phải phân tích và tổng hợp các hiện tượng. Phân loại cũng là
một cách vừa phân tích, vừa khái quát làm minh bạch hóa vấn đề giúp cho quá
trình nhận thức được dễ dàng hơn.
Sau
hơn hai năm phát triển, khối lượng bài viết trên trang Tri ân cuộc đời đã lên đến
hàng nghìn. Để quản lý và tra cứu được khối lượng bài ấy đã đặt ra vấn đề cần
phải phân loại. Ban quản lý trang mạng đã làm công việc này là rất đúng lúc. Đại
bộ phận các loại mục phân chia của trang mạng là khá hợp lý như Blog video,
bình thơ, chúc mừng, ký sự ảnh, thơ bạn bè…nhưng cũng có những loại mục chưa ổn:
chẳng hạn như loại mục KHẢO DỊ là dùng chữ sai. Vì khảo dị (hoặc khảo đính) chỉ
có nghĩa là xem xét bàn bạc về sự khác nhau giữa các văn bản của cùng một tác
phẩm. Đây chỉ là một tiểu mục nhỏ trong các sách biên khảo giới thiệu các tác
phẩm văn học cổ, vì các tác phẩm cổ thường có nhiều dị bản. Ví dụ như bài Tỵ khấu sơn trung của Nguyễn Phi Khanh:
避簆山中
山房盡日醉 昏昏
世路難危懶出門
六袞茲身千里隔
两年蔻亂一身存
風塵天地空搔髮
烟瘴林蠻只断魂
謾有寸懷勞耿耿
夜依牛斗望中原
阮飛卿
Phiên âm:
Tỵ khấu sơn trung 1*
Sơn phòng
tận 2* nhật túy hôn hôn
Thế lộ nan nguy 3* lãn 4*xuất
môn
Lục cổn từ thân thiên lý cách
Lưỡng 5* niên khấu loạn
nhất thân tồn
Phong trần thiên địa không 6* tao
phát
Yên chướng 7* lâm man chỉ
8* đoạn hồn
Mạn hữu thốn hoài lao cảnh cảnh
Dạ y 9* ngưu đẩu vọng
10*trung nguyên. (1)
Dịch nghĩa:
Lánh giặc trong núi
Dưới mái nhà trong núi suốt ngày
say li bì
Đường đời nguy nan ít ra khỏi cửa
Mẹ già sáu mươi tuổi cách xa ngàn dặm
Loạn lạc hai năm nay một thân vẫn
còn
Đất trời gió bụi mà cứ gãi mái tóc
suông
Lam chướng núi rừng, chỉ những mòn
mỏi tâm hồn!
Dai dẳng một tấm lòng canh cánh lo
âu
Đêm đêm theo sao Ngưu sao Đẩu trông
ngóng về trung nguyên.
Dịch thơ
Suốt ngày trong núi rượu triền miên
Nguy hiểm đường đời ngại chẳng lên
Xót mẹ tuổi già nghìn dặm cách
Thương ta lánh nạn một thân tuyền
Đất trời gió bụi lo suông vậy
Lam chướng núi rừng mệt mỏi thêm
Canh cánh nỗi lòng da diết nhớ
Đêm nhìn ngưu đẩu ngóng trung nguyên.
Đỗ Đình Tuân dịch
Ghi chú
1.Trung nguyên: chỉ vùng trung tâm
của đất nước
Có phần khảo dị như sau:
1*TTCGLT: có thêm hai chữ 有感
(nghĩa là trong “Tinh tuyển chư gia luật thi” đầu đề bài thơ có thêm hai chữ hữu
cảm. Tên bài này trong sách ấy ghi là “Tỵ khấu sơn trung hữu cảm”).
2* TTCGLT: 冬 (chữ “tận” trong TTCGLT là chữ
“đông”)
3*
TVTL2: 艱難 (chữ “nan nguy” trong Toàn Việt thi lục 2 là chữ “gian
nan”)
4* TTCGLT: 瀨 ( chữ “lãn” trong TTCGLT là chữ “lại”
5* TVTL2: 百 ( chữ “lưỡng” trong TVTL 2 là chữ
“bách”)
6* TTCGLT: 容( chữ “không” trong TTCGLT là chữ
“dung”)
7* TVTL3: 障 ( Chữ “chướng瘴” (khí độc) trong TVTL3 lại là chữ “chướng障”
(che lấp)
8* TVTL3: 問 ( chữ “chỉ” trong TVTL3 là chữ “vấn”)
9* TTCGLT, TVTL2: 懷 ( chữ “y” trong TTCGLT và TVTL2 là
chữ “hoài”)
10* TVTL3: 翠 (chữ “vọng” trong TVTL3 là chữ
“thúy”)
Trong một bài thơ nhỏ mà có đến 10 điểm có những dị biệt. Khảo
dị có nghĩa là như vậy. Còn các bài viết trong loại mục KHẢO DỊ của Tri ân cuộc
đời thực tế lại là những bài sưu tầm và
giới thiệu những tác giả
và tác phẩm cổ có liên quan đến đất và người Chí Linh, … Cho nên những bài viết
thuộc loại này cứ gọi nó là Sưu tầm giới
thiệu.
Theo suy nghĩ của riêng tôi thì nên phân chia các bài viết trên TRI ÂN CUỘC ĐỜI như sau:
Theo suy nghĩ của riêng tôi thì nên phân chia các bài viết trên TRI ÂN CUỘC ĐỜI như sau:
Mảng
văn ( cả sáng tác và bình luận) chỉ nên chia thành ba mục tạp văn, truyện ký và
bình luận (Bao gồm các bài bình thơ, điểm thơ, giới thiệu...)
Mảng thơ, là khu vực đông đảo hội viên tham gia nhất
cũng nên phân loại cho đại khái thôi. Theo tôi chỉ nên chia thành
thành ba khu vực: Thơ hội viên, thơ bầu bạn , thơ giao lưu xướng họa (bao gồm
cả xướng họa, đối đáp, giữa hội viên với nhau và với bầu bạn xa gần. Không nên để những mục như
“thơ tình” nhất là “thơ men”. Tuy trong
cuộc đời ai cũng có thể có đôi ba mối tình vắt vai, nhưng có phải cứ yêu là viết
được thơ tình đâu. Thơ men càng như vậy. Nhiều người biết uống rượu nhưng không
phải ai uống rượu là viết được thơ men. Trong xóm ta, tôi
mới thấy có ông Thanh Dạ viết được bài “Uống rượu uống nhau”. Nhưng thực tình chỉ mới nghe tên bài thơ ấy là tôi đã phát hoảng và rất sợ phải uống rượu với ông Thanh Dạ. Bởi
sơ sểnh một tý là hắn có thể nuốt chửng mình ngay. Đó là một bài“thơ
khủng” thì đúng hơn.
Dành
riêng cho Ban quản lý nên có mục Thông
báo bao gồm mọi thông tin về hiếu hỉ và phổ biến nội bộ. Cũng nên có thêm mục
Diễn đàn hoặc Trao đổi để ghi nhận những ý kiến đóng góp của mọi người và trao
qua đổi lại lẫn nhau…
Trên đây là một vài ý nhỏ trình bày với cả xóm
và Ban quản lý. Rất mong được mọi người tham khảo. Xin trân trọng cám ơn.
Chí Linh 12/9/2012
Đỗ Đình Tuân
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét