Trần Nghệ Tông
(1322-1395)
Trần Nghệ Tông tên thật là Trần Phủ, sinh đầu năm 1322, là
con thứ ba của vua Trần Minh Tông, là vua thứ tám của triều Trần.
“Dưới thời Trần Dụ Tông ông giữ chức Tể tướng,
tước Cung Định vương. Khi Dương Nhật Lễ tiếm ngôi, ông phải chạy lên vùng Đà
Giang. Năm Canh Tuất-1370, triều đình đem quân vào kinh bắt Dương Nhật Lễ và
đón ông từ Đà Giang về tôn lên làm vua-tức vua Trần Nghệ Tông. Được ba năm, ông
nhường ngôi cho em là Trần Duệ Tông và lên làm Thượng hoàng. Duệ Tông chết
trận, ông lại lập cháu là Trần Nghiễn lên ngôi. Lúc này nhà Trần đã suy phải
dựa vào thế lực của Hồ Quý Ly. Việc phế lập của ông cũng đẩy nhanh bước xụp đổ
của nhà Trần” (Từ điển VHVN-từ nguồn
gốc đến hết thế kỷ XIX).
Ông mất ngày 6 tháng 1 năm 1395. Tác
phẩm có Hoàng huấn, Đế châm, Bảo hòa dư bút và Nghệ tông thi tập
nhưng đều thất truyền chưa sưu tầm lại được. Hiện nay chỉ còn lại 5 bài thơ
được ghi trong Việt âm thi tập. Chúng tôi xin giới thiệu 1 bài thơ và một bài minh của ông viết về Trần Nguyên
Đán và Thanh Hư động.
題司徒陳元旦祠堂
山僮扶輦曉衝泥
再到崑山日正西
雨过泉聲穿石遠
風搖竹影拂檐氐
鹽梅事去碑由在
星斗亶荒路轉迷
寂寞洞天人舞化
惟存行跡起餘悽
Phiên âm
Đề Tư đồ
Trần Nguyên Đán từ đường
Sơn đồng phù
liễn hiểu xung nê,
Tái đáo Côn
Sơn nhật chính tê.
Vũ quá tuyền
thanh xuyên thạch viễn;
Phong dao
trúc ảnh phất thiềm đê.
Diêm mai sự
khứ bi do tại;
Tinh đẩu đàn
hoang lộ chuyển mê.
Tịch mịch
đông thiên nhân vũ hóa,
Duy tồn hành
tích khởi dư thê.
Dịch nghĩa:
Đề
nhà thờ quan Tư đồ Trần Nguyên Đán
Từ
sớm mấy chú sơn đồng khiêng kiệu vượt bùn lầy,
Tới
Côn Sơn mặt trời đã ngả về tây.
Tạnh
mưa tiếng suối xa xa xối vào đá,
Gió
đưa cành trúc phất phơ trên mái hiên
thấp.
Việc
muối mơ 1 qua rồi bia hãy còn đây,
Đàn
tinh đẩu 2 bỏ hoang lối đi đã mờ.
Động
phủ quạnh vắng người bay lên tiên rồi,
Chỉ
còn dấu vết gợi lên nỗi buồn man mác.
Dịch thơ
Sơn đồng
khiêng kiệu sớm đi ra,
Vừa tới
Côn Sơn bóng đã tà.
Mưa tạnh
suối xa reo vách đá;
Gió đưa
cành trúc rủ hiên nhà.
Muối mơ
dấu cũ bia còn đó;
Tinh đẩu
đàn hoang lối đã mờ.
Động phủ
quạnh hưu người vắng bóng,
Lòng buồn
man mác nhớ ai xưa !
Đỗ
Đình Tuân dịch
Chú thích
1.Việc muối mơ: Ở đây chỉ việc
làm tể tướng của Trần Nguyên Đán.Ý này rút từ tích vua Cao Tông nói với tể
tướng là Phó Duyệt rằng: “Nhược tác điều canh, nhữ vi diêm mai” nghĩa là: “nếu
làm việc điều canh, thì nhà ngươi làm muối,làm quả mơ”.Từ đó, dựa vào ý câu
này, người sau dùng “diêm mai” hay “điều canh” để chỉ tài làm tể tướng.
2.Đàn Tinh Đẩu: có lẽ ở đây chỉ
Đài quan sát các vì tinh tú của Trần Nguyên Đán, vì ngoài việc làm tể
tướng,Trần Nguyên Đán còn là một nhà thiên văn có soạn bộ sách Bách thế
thông kỷ nhưng đã thất truyền.
昆山清虛洞碑銘
司徒創菴
于彼崟嶔
豈有願於獨樂
盖寓意乎登臨
日坐盤石則置國势之安
日俯清流則欲資國論之深
隐茂樹則思擴吾民之大庇
倚脩竹則欲致賢士之如林
輔贊我治無有遐心
此朕所以嘆而書于山之陰者也
Phiên âm
Côn Sơn
Thanh Hư động bi minh
Tư đồ sáng
am,
Vu bỉ ngâm
khâm.
Khởi hữu
nguyện ư độc lạc;
Cái ngụ ý hồ
đăng lâm.
Nhật tọa bàn
thạch, tắc trí quốc thế chi an;
Nhật phủ
thanh lưu, tắc dục trị quốc luận chi thâm.
Ẩn mậu thụ,
tắc tư khuyếch ngô dân chi đại tí;
ỷ tu trúc,
tắc dục trí hiền sĩ chi như lâm.
Phụ tán ngã
trị,vô hữu hà tâm;
Thử trẫm sở
dĩ thán nhi thư vu sơn chi âm giả dã.
Dịch nghĩa
Bài
minh khắc vào bia động Thanh Hư ở Côn Sơn
Tư
đồ dựng am,
Trên
núi thâm nghiêm.
Há
phải muốn riêng mình vui thú;
Chính
là để ngụ cái ý lên cao.
Ngồi
trên bàn đá là muốn đặt thế nước yên ổn;
Cúi
nhìn dòng nước trong là muốn bàn sâu vào việc nước.
Nương
dưới bóng cây là muốn mở rộng được sự che chở cho dân;
Tựa
vào khóm trúc là muốn đến với nhiều hiền sĩ.
Ông
giúp ta trị nước, chứ không có tâm địa gì;
Trẫm
thương tiếc nên tìm hòn đá đẹp ghi vào lời này.
2/9/2012
Đỗ Đình Tuân
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét