Lê Thánh Tông
(1442-1497)
Lê Thánh Tông, tên thật là Lê Tư Thành, là con thứ tư của
vua Lê Thái Tông, mẹ là bà Ngô Thị Ngọc Giao (con quan Thái bảo Ngô Từ, một
khai quốc công thần của nhà Lê). Khi còn làm Tiệp dư, bà Ngọc Giao đã bị bà
Phi Nguyễn Thị Anh tìm cách hãm hại. Sau nhờ có Nguyễn Trãi và Nguyễn Thị
Lộ đưa ra chùa Huy Văn, sinh Tư Thành
ở đấy; Sau đó hai mẹ con bà Ngọc Giao lại đựơc đưa ra lánh nạn ngoài An Bang
(Quảng Ninh ngày nay).
Lúc nhỏ Lê Tư Thành sống bên ngoài
cung khuyết, lúc lên 4 tuổi, mới được bà Nguyễn Thị Anh- lúc đó đã trở thành
hoàng thái hậu nhiếp chính và con trai bà là Thái tử Bang Cơ đã lên làm vua-
cho đón về phong làm Bình Nguyên vương, được ở trong nội triều và học hành
cùng với các thân vương.
Cuối năm 1459, một người con của
Thái Tông với bà Dương thị Bí là Lạng Sơn Vương Lê Nghi Dân đã cùng phe đảng
đang đêm cho quân đột nhập vào cung giết vua và hoàng thái hậu để tiếm ngôi. Nhưng
chỉ được tám tháng sau, vào giữa năm
1460, triều thần lại làm chính biến phế Nghi Dân và lập Tư Thành lên làm vua.
Ông trở thành vị vua thứ năm của triều Lê, ở ngôi 38 năm, hai lần đổi niên
hiệu: Quang Thuận (1460-1469) và Hồng Đức (1470-1497).
Ngoài những cải cách lớn về chính trị, Lê Thánh Tông còn là
một ông vua có nhiều đóng góp to lớn cho phát triển văn hóa của dân tộc. Ông là
người chủ trương cho biên soạn bộ “Đại Việt sử ký toàn thư” (1479) và bộ
“Thiên Nam
dư hạ tập”(1483). Ông cũng là người vừa đề xướng vừa cổ vũ phong trào sáng
tác trong giới quan lại cung đình, thường chủ trì những cuộc xướng họa lớn
với các văn quan trong triều.Theo Đại Việt sử ký toàn thư thì vua Hồng Đức thấy hai năm liền (Quý
Sửu-1493 và Giáp Dần-1494) được mùa lớn, bèn nhân lúc thư nhàn đặt 9 bài thơ
gồm:1-Phong niên (năm được mùa), 2- Quân đạo (đạo làm vua), 3-Thần tiết (khí
tiết của bề tôi), 4- Minh lương (vua sáng tôi hiền), 5- Anh hiền(bậc hiền
tài), 6-Kỳ khí (khí lạ), 7-Thư thảo (phép viết chữ), 8-Văn nhân (người văn
chương), 9-Mai hoa (hoa mai). Rồi ông tập hợp 28 văn thần gọi là “Tao đàn nhị
thập bát tú” ( thi đàn hai mơi tám ngôi sao), từng người cứ theo vần của 9
bài thơ vua đã xướng ra ấy mà họa lại.
Hai mươi tám văn thần được vua Hồng Đức chọn gồm: Đỗ Nhuận,Thân Nhân Trung,
Ngô Luân, Ngô Hoán, Nguyễn Xung Xác (Nguyễn Trọng ý), Lưu Hưng Hiếu, Nguyễn
Quang Bật, Nguyễn Đức Huấn, Vũ Dương, Ngô Thầm, Ngô Văn Cảnh, Phạm Trí Khiêm,
Lưu Thư Ngạn, Nguyễn Nhân Bị, Nguyễn Tông Miệt, Ngô Quyền(Ngô Hoan), Nguyễn
Bảo Khuê, Chu Hoãn(Nguyễn Hoãn), Phạm
Cẩn Trực, Nguyễn Ich Tốn, Đỗ Thuần Thứ(Đỗ Thuần Thông), Phạm Nhu Huệ (Đoàn Trí
Nhu), Lưu Dịch, Đàm Thận Huy, Phạm Đạo Phú, Chu Huân.
Những bài thơ xướng họa giữa Lê
Thánh Tông và 28 vị văn thần này có lẽ sau này được nhà vua giao cho Đỗ Nhuận
và Thân Nhân Trung tập hợp và khắc ván in làm thành sách “Quỳnh uyển cửu ca”-
do Lê Thánh Tông trực tiếp viết lời tựa- vào năm 1495.
Lê Thánh tông còn để lại khá nhiều
tác phẩm.Bằng chữ Hán có sách Liệt truyện tạp chí, Lam Sơn lương thủy,Thơ
chữ Hán gồm các tập: Anh hoa hiếu thị, Chinh Tây kỳ hành, Minh lương cẩm
tú, Văn minh cổ xúy, Cổ tâm bách vịnh, Xuân vân thi tập, Cổ kim cung từ thi
tập, Châu cơ thắng thưởng thi và Quỳnh uyển cửu ca do ông viết
những bài xướng và lời tựa. Về chữ nôm: Ông là tác giả chính của tập “Hồng
Đức quốc âm thi tập”.
Với Chí Linh, Lê Thánh Tông cũng để
lại khá nhiều bài thơ viết về vùng này. Dưới dây chúng tôi xin trân trọng giới
thiệu các bài thơ ấy:
1.平灘夜泊
一規冰玉貼雲端
漠漠平坡望目寬
紅葉山林龍雨霽
白蘋州渚鯉風寒
船楼客若天邊坐
水國人從鏡里看
老去道心乾不息
絕塍仙觀太清丹
黎聖宗
Phiên âm
Bình Than dạ bạc
Nhất quy băng ngọc thiếp vân đoan
Mạc mạc bình pha vọng mục khoan
Hồng diệp sơn lâm long vũ tễ
Bạch tần châu chử lý phong hàn
Thuyền lâu khách nhược thiên biên tọa
Thủy quốc nhân tòng kính lý khan
Lão khứ đạo tâm càn bất tức
Tuyệt thăng tiên quán thái thanh đan.
Lê Thánh Tông
Dịch nghĩa
Đêm đậu thuyền ở bấn Bình Than
Một vầng trăng tròn như băng ngọc cao tít trên
mây
Bãi vắng thoai thoải nhìn ngút mắt
Lá đỏ núi rừng cơn mưa rồng tạnh
Rau tần trắng bãi gió lạnh lan vào
Khách trên lầu thuyền ngồi bên trời
Bóng người theo
thuyền soi dưới đáy nước
Già đến lòng đạo càng thêm cứng
Hơn cả thanh đan trên nhà tiên.
Dịch thơ
Khuôn trăng như ngọc dán trời
cao
Bãi vắng thoai thoai bát ngát sao
Lá đỏ khắp rừng mưa tạnh hẳn
Rau tần trắng bãi lạnh tan vào
Bên trời thuyền gác người yên vị
Đáy nước gương trong bóng ngước chào
Lòng đạo càng già càng cứng cỏi
Thanh đan tiên quán kém chi nào?
Đỗ Đình Tuân dịch
2. 至靈山道中
其一
河岳英靈從橐中
客來寺外忽聞鍾
岩巒矗矗寒風冽
疑是幽山十二峰
黎聖宗
Phiên âm
Chí Linh
sơn đạo trung
Kỳ nhất
Hà nhạc anh linh tùng thác trung
Khách lai tự ngoại hốt văn chung
Nhạc loan súc súc hàn phong liệt
Nghi thị U Sơn thập nhị phong.
Lê Thánh Tông
Dịch nghĩa
Trên đường
núi Chí Linh
Bài 1
Núi sông anh linh trong lồng trời đất
Khách đến ngoài chùa bỗng nghe tiếng chuông
Vách núi sừng sững giá rét căm căm
Ngỡ như ở mười hai ngọn núi U Sơn vậy.
Dịch thơ
Trong lồng
trời đất núi sông thiêng
Khách đến
ngoài chùa chuông bỗng bi…iêng…
Vách đá
chênh vênh trời buốt lạnh
Ngỡ như
đang dưới U Sơn miền. *
Đỗ Đình
Tuân dịch
Ghi chú
*U Sơn: theo truyền thuyết thì ở dưới âm phủ có 12 ngọn núi tên là U
Sơn (núi tối)
3. 至靈山道中
其二
探禪人戀心為佛
名利都歸小歇關
路轉林回雲袂冷
举頭疑入四明山.
黎聖宗
Phiên âm
Chí Linh sơn đạo trung
Kỳ nhị
Tham thiền nhân luyến tâm vi Phật
Danh lợi đô quy tiểu yết quan
Lộ chuyển lâm hồi vân duệ lãnh
Cử đầu nghi nhập Tứ Minh sơn.
Lê Thánh Tông
Dịch nghĩa
Trên đường núi Chí Linh
Bài 2
Người tham thiền muốn biến tâm mình thành Phật
Danh lợi đều tạm ngừng để ngoài cửa quan
Đường rừng quanh co áo vương mây lạnh
Ngẩng đầu ngỡ mình đang lên núi Tứ Minh.
Dịch thơ
Tham thiền muốn biến tâm nên Phật
Danh lợi đều buông ngoài cửa quan
Đường núi quẩn quanh mây lạnh áo
Ngẩng đầu ngỡ đến Tứ Minh san. *
Đỗ Đình Tuân dịch
Ghi chú
*Núi Tứ Minh: theo truyền thuyết thì núi Tứ
Minh có bốn cửa thông với: nhật, nguyệt, tinh, thần (núi bốn sáng).
4. 過興道王祠
淅淅風前紅葉樹
悠悠天外白衣雲
重楼翠宇人何在
惟見荒山對夕曛
黎聖宗
Phiên âm
Quá Hưng Đạo vương từ
Tích tích phong tiền hồng diệp thụ
Du du thiên ngoại bạch y vân
Trùng lâu thúy vũ nhân hà tại
Duy kiến hoang sơn đối tịch huân.
Lê Thánh Tông
Dịch nghĩa
Qua đền Hưng Đạo vương
Hàng cây lá đỏ trước gió vi vu
Dải mây trắng bay bên trời xa xa
Lầu cao gác biếc không thấy người đâu
Chỉ thấy núi hoang cùng bóng chiều chạng vạng.
Dịch thơ
Vi vu lá đỏ hàng cây
Xa xa trắng một dải mây bên trời
Lầu cao gác biếc không người
Bóng chiều chạng vạng núi đồi hoang sơ.
Đỗ Đình Tuân dịch
5. 過萬劫
平江望断眼棱寒
事少神遊八八還
繫韃不因羅帯水
硏胡未必劍鋩山
海枯谷變興亡外
子孝神忠夢寐間
天際去留無望極
悠悠出岫白雲閒
黎聖宗
Phiên âm
Quá Vạn Kiếp
Bình giang vọng đoạn nhãn lăng hàn
Sự thiểu thần du Bát Bát hoàn
Hệ Thát bất nhân la đới thủy
Nghiên Hồ vị tất kiếm hoang san
Hải khô cốc biến hưng vong ngoại
Tử hiếu thần trung mộng mị gian
Thiên tế khứ lưu vô vọng cực
Du du xuất tụ bạch vân nhàn.
Lê Thánh Tông
Dịch nghĩa
Qua Vạn Kiếp
Mặt sông phẳng lặng nhìn mãi thấy lạnh khóe
mắt
Ít việc thả hồn vào cõi tiên
Trói giặc Thát đâu cần đến dải sông lụa
Băm giặc Hồ chưa hẳn phải dùng đến mũi núi
gươm
Biển khô hang đổi ngoài cuộc hưng vong
Con hiếu tôi trung trong vòng mộng mị
Đường chân trời đi ở không có định cực
Xa xa dải mây trắng nhàn nhã bay ra ngoài hốc
núi.
Dịch thơ
Tít tắp sông bằng lạnh mắt trông
Thả hồn du ngoạn cõi mênh mông
Băm Hồ chưa hẳn dùng gươm núi
Trói Thát đâu cần đến lụa sông
Con hiếu tôi trung vòng mộng mị
Biển khô hang đổi lẽ hưng vong
Chân trời đi ở như vô cực
Hốc núi nhàn bay mây trắng bông.
Đỗ Đình Tuân dịch
6. 駐萬刧
浮世無根優缽曇
太倉梯米總前三
枝頭罟罟鳩聲急
雨腳霏霏蟻戰甘
萬刧山椒雲似絮
平灘江上水如蓝
桓桓興道安民積
簡册留芳萬古談
黎聖宗
Phiên âm
Trú Vạn Kiếp
Phù thế vô căn ưu bát đàm
Thái thương thê mễ tổng tiền tam
Chi đầu cổ cổ cưu thanh cấp
Vũ cước phi phi nghĩ chiến cam
Vạn kiếp sơn tiêu vân tự nhứ
Bình Than giang thượng thủy như lam
Hoàn hoàn Hưng Đạo an dân tích
Giản sách lưu phương vạn cổ đàm.
Lê Thánh Tông
Dịch nghĩa
Nghỉ lại ở Vạn Kiếp
Hoa ưu đàm không có rễ trong cõi đời trôi nổi
Cùng với học thóc lép trong kho lớn đều do
ba kiếp định trước
Đầu cành rậm rạp tiếng chim giục giã
Dưới trời mưa lất phất đàn kiến đánh nhau
hăng
Đỉnh núi Vạn Kiếp mây trắng như bông
Trên sông Bình Than nước xanh như chàm
Công tích an dân lừng lẫy của Hưng Đạo
Còn lưu thơm trong sử sách vạn năm còn nhắc
tới.
Dịch thơ
Điềm lành không rễ cõi nhân gian
Ba kiếp vần xoay định rõ ràng
Rậm rạp đầu cành chim gáy gấp
Lay phay mưa bụi kiến đua gan
Đỉnh non Vạn Kiếp mây bông trắng
Ngọn sóng Bình Than nước biếc lam
Hưng Đạo an dân lững lẫy vậy
Lưu thơm sử sách vạn năm bàn.
Đỗ Đình Tuân dịch
7. 御題崑山寺
竫土樓臺景致奇
古人陳跡甚依稀
一天草木供吟賞
四顧江山入指揮
大有廢興今亦昔
事無記載是耶非
閒中自有閒中樂
付與僧童意自知
黎聖宗
Phiên âm
Ngự đề Côn Sơn tự
Tĩnh thổ lâu đâì cảnh chí kỳ
Cổ nhân Trần tích thậm y hy
Nhất thiên thảo mộc cung ngâm thưởng
Tứ cố giang sơn nhập chỉ huy
Đại hữu phế hưng kim diệc tích
Sự vô ký tải thị da phi
Nhàn trung tự hữu nhàn trung lạc
Phó dữ tăng đồng ý tự tri.
Lê Thánh Tông
Dịch nghĩa
Ngự đề chùa Côn Sơn
Lâu đài nơi đất Phật cảnh trí đẹp lạ lùng
Dấu tích cổ nhân thời Trần còn y nhiên đó
Một trời cây cỏ cung cấp cho việc ngâm vịnh
Bốn phía núi sông trong tầm tay chỉ trỏ
Đời có phế hưng nay vẫn như xưa
Việc không ghi chép biết sai hay đúng
Trong lúc thư nhàn sẽ tự có thú vui thư nhàn
Chỉ có chú tiểu đây tự biết được ý đó.
Dịch thơ
Đất Phật lâu đài cảnh đẹp thay
Người xưa Trần tích vẫn còn đây
Một trời cây cỏ cho ngâm thưởng
Bốn phía non sông trong khoảng tay
Đời có hưng vong nay giống trước
Việc không ghi chép dở như hay
Thư nhàn sẽ thấy thư nhàn thú
Chỉ chú tiểu tăng rõ ý này.
Đỗ Đình Tuân dịch
8.
君明臣良
高帝英雄蓋世名,
文皇智勇撫盈成。
抑齋心上光奎藻,
武穆胸中列甲兵。
十鄭第兄聯貴顯,
二申父子佩恩榮。
孝孫洪德承丕緒,
八百姬周樂治平。
文皇智勇撫盈成。
抑齋心上光奎藻,
武穆胸中列甲兵。
十鄭第兄聯貴顯,
二申父子佩恩榮。
孝孫洪德承丕緒,
八百姬周樂治平。
黎聖宗
Phiên
âm:
Quân minh thần lương
Cao
Đế anh hùng cái thế danh;
Văn
Hoàng trí dũng phủ doanh thành.
ức
Trai tâm thợng quang khuê tảo;
Vũ
Mục hung trung liệt giáp binh.
Thập
Trịnh đệ huynh liên quý hiển;
Nhị
Thân phụ tử bội ân vinh.
Hiếu
tôn Hồng Đức thừa phi tử,
Bát
bách cơ Chu lạc trị bình.
Lê Thánh Tông
Dịch
nghĩa:
Vua sáng tôi hiền
Vua
Cao đế anh hùng uy danh bao trùm cả một đời;
Vua
Văn hoàng trí dũng giữ yên cơ nghiệp thịnh vượng.
Ức Trai lòng rạng
rỡ như ánh sáng sao khuê;
Vũ
Mục bụng bày hàng những binh giáp.
Mười
anh em họ Trịnh đều phú quý hiển đạt;
Hai
cha con họ Thân đều được tước lộc vẻ vang.
Cháu
hiếu này là Hồng Đức nối giữ nghiệp lớn,
Vui
thấy cuộc trị bình sẽ được lâu dài như đời cơ Chu
tám trăm năm.
Dịch thơ
Cao Đế 1 anh hùng đã nức danh,
Văn Hoàng2 trí dũng xứng cha anh.
Ưc Trai3 lòng sáng sao Khuê sớm,
Vũ Mục 4 bụng bầy những giáp binh.
Họ Trịnh mười anh em 5 hiển đạt,
Họ Thân đôi phụ tử 6 đều vinh.
Cháu Hồng Đức 7 kế thừa ngôi lớn,
Mừng được Cơ Chu 8 mãi thái bình.
Đỗ Đình Tuân dịch
Chú thích
1-Cao
đế:chỉ Thái tổ Cao hoàng đế, tức Lê Lợi.
2-Văn
Hoàng: chỉ Thái Tông Văn hoàng đế, tức Lê Nguyên Long.
3-
Ưc Trai. tên hiệu của Nguyễn Trãi.
4-Vũ
Mục: chỉ Tư mã Lê Khôi-Thụy là Vũ Mục-cháu gọi Lê Lợi bằng chú, là tướng
giỏi có nhiều mưu lược.
5-
Mười anh em họ Trịnh đều hiển đạt là: Thái úy Trịnh Khả và các em là Trịnh Bá
Quát, Trịnh Công Lộ, Trịnh Công Ngộ, Trịnh Đạt, Trịnh Quý Thuật, Trịnh Quý Địch,
Trịnh Hựu, Trịnh Giang,...(?)
6-Họ
Thân cả hai cha con đều vinh hiển là Thân Nhân Trung và con là Thân Nhân Tín, nối
gót nhau đỗ đạt cao và làm quan to.
7-Hồng
Đức: một niên hiệu của vua Lê Thánh Tông(1470-1497).
8-Cơ
Chu: chỉ nhà Chu tồn tại 800 năm trong lịch sử Trung Quốc.Ý câu thơ muốn ngầm
so sánh nhà Lê với nhà Chu của Trung Quốc.
4/9/2012
Đỗ Đình Tuân
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét