Thứ Năm, 27 tháng 9, 2012

Danh nhân nho sĩ viết về Chí Linh 5


                                                
                                     Thái Thuận
                                         (1441-?)
              
            Theo TỪ ĐIỂN VĂN HỌC VIỆT NAM – Từ nguồn gốc đến hết thế kỷ XIX  thì Thái Thuận, còn có sách chép là Sái Thuận, tự Nghĩa Hòa, hiệu Lục Khê,  biệt hiệu Lã Đường; người làng Liễu Lâm huyện Siêu Loại (nay thuộc huyện Thuận Thành tỉnh Bắc Ninh). Ông vốn là một người lính dạy voi của nhà vua. Năm Hồng Đức thứ 6 (1475) đời Lê Thánh Tông, ông đỗ Tiến sĩ, năm ấy ông 35 tuổi, được bổ chức Hàn lâm hiệu úy kiêm chức tham chính tỉnh Hải Dương.
            Kiến văn tiểu lục của Lê Quý Đôn thì chép: “ Thái Thuận giữ công việc của viện Hàn Lâm 24 năm, thơ văn rất nhiều, Thánh Tông cho hiệu là Tao đàn phó nguyên soái, từ đấy thơ văn càng phát triển. Khi ra giữ chức Tham chính Hải Dương, đề vịnh cũng nhiều, học trò là Lữ Chính Mô biên tập thành từng loại nhan đề là Lữ Đường di cảo. Chính Mô có bài tựa xưng tụng rằng: “Các bài trứ tác đều từ trong bụng đào bới ra, rất là tân kỳ, mà cách điệu âm luật và phép đặt câu thì đủ thể của các nhà văn”. Lời xưng tụng ấy rất đúng, bởi vì sau tập thơ Giới Hiên của Nguyễn Trung Ngạn thì ít có thể văn ấy.
            Công dư tiệp ký tục biên  của Trần Quý Nha cho biết cụ Lã Đư­­ờng có tập thơ vịnh phong cảnh nhiều vùng ở Chí Linh. Khi viết về vùng núi Phượng Hoàng thơ cụ Lã Đường  có nói đến việc đào đá tìm son của dân địa phương “Thạch nham đa quật vị tầm châu”. Nghĩa là: “Đào nhiều đất đá để lấy son”. Lại có câu:
                             Tương phùng vị hữu hưu quan ước,
                             Linh Triệt hoàn ưng tiếu ngã phầu?
            Nghĩa là:
            Lúc gặp nhau chưa có hẹn ước thôi quan về nghỉ hưu,
            Linh Triệt (tức Chu Văn An) có nên cười ta không?
           Nhưng cũng không thấy dẫn ra cụ thể bài thơ nào của ông. Chí linh phong vật chí Di sản Hán Nôm có ghi chép được năm bài thơ của ông viết về vùng này.
無題
日早平灘漁笛短 
夜寒譜赖火燈孤
不知今古登臨客
亦有江山渺望無 
          呂唐
Phiên âm:
Vô đề
Nhật tảo Bình Than ng­­ư địch đoản,
Dạ hàn Phả Lại hỏa đăng cô.
Bất tri kim cổ đăng lâm khách,
Diệc hữu giang sơn diểu vọng vô?
                                   Lã Đường
Dịch nghĩa:
Không đề
Buổi sáng tiếng sáo dân chài Bình Than thổi nhanh gấp,
Đêm lạnh ngọn đèn chùa Phả Lại lẻ loi.
Chẳng hay du khách xư­­a nay đến đây,
Có ngắm nhìn non nư­­ớc này không?
Dịch thơ
Sáng nghe sáo gấp nhà chài
Đêm trông Phả lại lẻ loi ngọn đèn
Xưa nay du khách đến xem
Hỏi ai lại chẳng ngắm nhìn nước non?
                          Đỗ Đình Tuân dịch

至大灘渡
永徬榕蔭绿似苔
野程行盡少徘徊
十年客眼红雲倦
赴與江山一訪開
          呂唐
Phiên âm:
Chí Đại Than độ
Vĩnh bạng dung âm lục tự đài,
Dã trình hành tận thiểu bồi hồi.
Thập niên khách nhỡn hồng vân quyện,
Phó dữ giang sơn nhất phỏng khai.
                                     Lã Đường
Dịch nghĩa:
Đến bến Đại Than
Tựa mãi dưới gốc cây đa xanh biếc nh­­ư rêu,
Đư­­ờng đồng quê đi hết dạ bồi hồi.
M­­ười năm mắt khách đã mỏi mệt với mây hồng,
Nay mới có dịp ngắm nhìn non n­­ước.
Dịch thơ
Mãi ngồi dưới gốc đa xanh
Đường đồng quê lại dạo quanh bồi hồi
Mười năm mỏi mắt ngắm trời
Nơi này nay mới đến nơi ngắm nhìn.
                                Đỗ Đình Tuân dịch

崇嚴寺即景
林外鳥啼樓上鐘
天邊山色更重重
禪家淡泊無絲竹
谁借琴聲與老松
                    呂唐
Phiên âm
Sùng Nghiêm tự tức cảnh
Lâm ngoại điểu đề lâu thượng chung
Thiên biên sơn sắc cánh trùng trùng
Thiền gia đạm bạc vô ty trúc
Thùy tá cầm thanh dữ lão tùng.
                                     Lã Đường
Dịch nghĩa
Tức cảnh chùa Sùng Nghiêm
Tiếng chim kêu ngoài rừng tiếng chuông ở trên lầu
Bên trời sắc núi trập trùng xanh
Nhà chùa đạm bạc không có tiếng đàn sáo
Ai mang tiếng đàn đến cho cây thông già?
Dịch thơ
Tiếng chim rừng tiếng chuông lầu
Trùng trùng sắc núi một mầu xanh xanh
Chùa không tiếng sáo đàn tranh
Ai mang âm nhạc lên cành thông cao ?
                               Đỗ Đình Tuân dịch


題鳳凰山
瑞世鳳凰何處去
桐花落盡鵲巢孤
清風滿院竹君子
涼思超人松丈夫
僧户常關人畏虎
石岩多掘為尋
相逢未有休官約
靈撤還應笑我
                    呂唐

Phiên âm
Đề Phượng Hoàng sơn
Thụy thế phượng hoàng hà xứ khứ
Đồng hoa lạc tận thước sào cô
Thanh phong mãn viện trúc quân tử
Lương tứ siêu nhân tùng trượng phu
Tăng hộ thường quan nhân úy hổ
Thạch nham đa quật vị tầm chu
Tương phùng vị hữu hưu quan ước
Linh triệt hoàn ưng tiếu ngã phầu ?
                                      Lã Đường
Dịch nghĩa
Đề thơ trên núi Phượng Hoàng
Thời thế đẹp mà phượng hoàng lại bay đi đâu
Hoa ngô đồng rụng hết để trơ lại một tổ chim thước
Gió mát đầy nhà trúc như người quân tử
Suy nghĩ tỉnh táo đúng là bậc trượng phu như cây tùng cây bách
Cửa chùa thường đóng người sợ hổ
Đất đá đào bới lung tung để tìm son
Gặp nhau chưa hẹn ngày từ quan
Linh Triệt liệu có cười ta không ?
Dịch thơ
Thời đẹp phượng hoàng bay xứ mô
Ngô đồng hoa rụng tổ chim trơ
Đầy nhà gió mát trúc quân tử
Suy nghĩ hơn người quả trượng phu
Sợ hổ cửa chùa thường đóng kín
Tìm son đất đá bới lô nhô
Gặp nhau không hẹn ngày hưu nghỉ
Linh triệt có cười chê trách ta ?
                          Đỗ Đình Tuân dịch

至靈冬日
殘日梅花客里通
樽前酒淡興爭濃
江山到處無霜雪
橋木陰陰亦似松
                    呂唐
Phiên âm
Chí Linh đông nhật
Tàn nhật mai hoa khách lý thông
Tôn tiền tửu đạm hứng tranh nồng
Giang sơn đáo xứ vô sương tuyết
Kiều mộc âm âm diệc tự tùng.
                                   Lã Đường
Dịch nghĩa
Ngày đông ở Chí Linh
Ngày tàn khách đi qua con đường hoa mai
Nâng chén rượu nhạt lên trước hứng thú càng thêm nồng
Non sông chỗ nào cũng không thấy có sương tuyết
Cây cao sum suê tựa như cây tùng cây bách.
Dịch thơ
Chiều tà dạo gót đường mai
Tay nâng chén nhạt chưa phai thú nồng
Nơi nơi sương tuyết đều không
Cây cao bóng tựa tùng thông rườm rà.
                                 Đỗ Đình Tuân dịch

30/9/2012
Đỗ Đình Tuân

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

ĐẾM TIỀN

Ông ngồi giương kính đếm tiền Đồng tiền mỏng thế mà liền với xương Tiền này là khoản tiền lương Là tiền năm tháng chiến trường cho ta ...