Thái Thuận
(1441-?)
Theo TỪ ĐIỂN VĂN HỌC VIỆT NAM – Từ nguồn gốc đến hết thế kỷ XIX thì
Thái Thuận, còn có sách chép là Sái Thuận, tự Nghĩa Hòa, hiệu Lục Khê, biệt
hiệu Lã Đường; người làng Liễu Lâm huyện Siêu Loại (nay thuộc huyện Thuận Thành
tỉnh Bắc Ninh). Ông vốn là một người lính dạy voi của nhà vua. Năm Hồng Đức thứ
6 (1475) đời Lê Thánh Tông, ông đỗ Tiến sĩ, năm ấy ông 35 tuổi, được bổ chức
Hàn lâm hiệu úy kiêm chức tham chính tỉnh Hải Dương.
Kiến văn tiểu lục của Lê Quý Đôn thì chép: “ Thái Thuận giữ công việc của
viện Hàn Lâm 24 năm, thơ văn rất nhiều, Thánh Tông cho hiệu là Tao đàn phó
nguyên soái, từ đấy thơ văn càng phát triển. Khi ra giữ chức Tham chính Hải
Dương, đề vịnh cũng nhiều, học trò là Lữ Chính Mô biên tập thành từng loại nhan
đề là Lữ Đường di cảo. Chính Mô có bài tựa xưng tụng rằng: “Các bài trứ
tác đều từ trong bụng đào bới ra, rất là tân kỳ, mà cách điệu âm luật và phép đặt
câu thì đủ thể của các nhà văn”. Lời xưng tụng ấy rất đúng, bởi vì sau tập thơ Giới
Hiên của Nguyễn Trung Ngạn thì ít có thể văn ấy.
Công dư tiệp ký tục biên của Trần Quý Nha cho biết cụ Lã Đường
có tập thơ vịnh phong cảnh nhiều vùng ở Chí Linh. Khi viết về vùng núi Phượng
Hoàng thơ cụ Lã Đường có nói đến việc đào đá tìm son của dân địa phương “Thạch
nham đa quật vị tầm châu”. Nghĩa là: “Đào nhiều đất đá để lấy son”. Lại có
câu:
Tương phùng vị hữu hưu quan ước,
Linh Triệt hoàn ưng tiếu ngã phầu?
Nghĩa là:
Lúc gặp nhau chưa có hẹn ước thôi quan về nghỉ hưu,
Linh Triệt (tức Chu Văn An) có nên cười ta không?
Nhưng cũng không thấy dẫn ra cụ thể bài thơ nào của ông. Chí linh phong vật chí và Di
sản Hán Nôm có ghi chép được năm bài thơ của ông viết về vùng này.
無題
日早平灘漁笛短
夜寒譜赖火燈孤
不知今古登臨客
亦有江山渺望無
呂唐
Phiên âm:
Vô đề
Nhật tảo Bình Than ngư địch đoản,
Dạ hàn Phả Lại hỏa đăng cô.
Bất tri kim cổ đăng lâm khách,
Diệc hữu giang sơn diểu vọng vô?
Lã Đường
Dịch nghĩa:
Không đề
Buổi sáng tiếng sáo dân chài Bình Than thổi
nhanh gấp,
Đêm lạnh ngọn đèn chùa Phả Lại lẻ loi.
Chẳng hay du khách xưa nay đến đây,
Có ngắm nhìn non nước này không?
Dịch thơ
Sáng nghe sáo gấp nhà chài
Đêm trông Phả lại lẻ loi ngọn đèn
Xưa nay du khách đến xem
Hỏi ai lại chẳng ngắm nhìn nước non?
Đỗ Đình Tuân dịch
至大灘渡
永徬榕蔭绿似苔
野程行盡少徘徊
十年客眼红雲倦
赴與江山一訪開
呂唐
Phiên âm:
Chí Đại Than độ
Vĩnh bạng dung âm lục tự đài,
Dã trình hành tận thiểu bồi hồi.
Thập niên khách nhỡn hồng vân quyện,
Phó dữ giang sơn nhất phỏng khai.
Lã
Đường
Dịch nghĩa:
Đến bến Đại Than
Tựa mãi dưới gốc cây đa xanh biếc như rêu,
Đường đồng quê đi hết dạ bồi hồi.
Mười năm mắt khách đã mỏi mệt với mây hồng,
Nay mới có dịp ngắm nhìn non nước.
Dịch thơ
Mãi ngồi dưới gốc đa xanh
Đường đồng quê lại dạo quanh bồi hồi
Mười năm mỏi mắt ngắm trời
Nơi này nay mới đến nơi ngắm nhìn.
Đỗ Đình Tuân dịch
崇嚴寺即景
林外鳥啼樓上鐘
天邊山色更重重
禪家淡泊無絲竹
谁借琴聲與老松
呂唐
Phiên âm
Sùng Nghiêm tự tức cảnh
Lâm ngoại điểu đề lâu thượng chung
Thiên biên sơn sắc cánh trùng trùng
Thiền gia đạm bạc vô ty trúc
Thùy tá cầm thanh dữ lão tùng.
Lã Đường
Dịch nghĩa
Tức
cảnh chùa Sùng Nghiêm
Tiếng chim kêu ngoài rừng tiếng chuông ở
trên lầu
Bên trời sắc núi trập trùng xanh
Nhà chùa đạm bạc không có tiếng đàn sáo
Ai mang tiếng đàn đến cho cây thông già?
Dịch
thơ
Tiếng
chim rừng tiếng chuông lầu
Trùng
trùng sắc núi một mầu xanh xanh
Chùa
không tiếng sáo đàn tranh
Ai
mang âm nhạc lên cành thông cao ?
Đỗ Đình Tuân dịch
題鳳凰山
瑞世鳳凰何處去
桐花落盡鵲巢孤
清風滿院竹君子
涼思超人松丈夫
僧户常關人畏虎
石岩多掘為尋硃
相逢未有休官約
靈撤還應笑我否
呂唐
Phiên âm
Đề Phượng Hoàng sơn
Thụy thế phượng hoàng hà xứ khứ
Đồng hoa lạc tận thước sào cô
Thanh phong mãn viện trúc quân tử
Lương tứ siêu nhân tùng trượng phu
Tăng hộ thường quan nhân úy hổ
Thạch nham đa quật vị tầm chu
Tương phùng vị hữu hưu quan ước
Linh triệt hoàn ưng tiếu ngã phầu ?
Lã Đường
Dịch nghĩa
Đề thơ trên núi Phượng Hoàng
Thời thế đẹp mà phượng hoàng lại
bay đi đâu
Hoa ngô đồng rụng hết để trơ lại một
tổ chim thước
Gió mát đầy nhà trúc như người quân
tử
Suy nghĩ tỉnh táo đúng là bậc trượng
phu như cây tùng cây bách
Cửa chùa thường đóng người sợ hổ
Đất đá đào bới lung tung để tìm son
Gặp nhau chưa hẹn ngày từ quan
Linh Triệt liệu có cười ta không ?
Dịch thơ
Thời đẹp phượng hoàng bay xứ mô
Ngô đồng hoa rụng tổ chim trơ
Đầy nhà gió mát trúc quân tử
Suy nghĩ hơn người quả trượng phu
Sợ hổ cửa chùa thường đóng kín
Tìm son đất đá bới lô nhô
Gặp nhau không hẹn ngày hưu nghỉ
Linh triệt có cười chê trách ta ?
Đỗ
Đình Tuân dịch
至靈冬日
殘日梅花客里通
樽前酒淡興爭濃
江山到處無霜雪
橋木陰陰亦似松
呂唐
Phiên âm
Chí Linh đông nhật
Tàn nhật mai hoa khách lý thông
Tôn tiền tửu đạm hứng tranh nồng
Giang sơn đáo xứ vô sương tuyết
Kiều mộc âm âm diệc tự tùng.
Lã Đường
Dịch nghĩa
Ngày đông ở Chí Linh
Ngày tàn khách đi qua con đường
hoa mai
Nâng chén rượu nhạt lên trước hứng
thú càng thêm nồng
Non sông chỗ nào cũng không thấy
có sương tuyết
Cây cao sum suê tựa như cây tùng
cây bách.
Dịch thơ
Chiều tà dạo gót đường mai
Tay nâng chén nhạt chưa phai thú nồng
Nơi nơi sương tuyết đều không
Cây cao bóng tựa tùng thông rườm rà.
Đỗ Đình Tuân dịch
30/9/2012
Đỗ Đình Tuân
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét