Thứ Tư, 30 tháng 5, 2012

Tác giả cổ ở Chí Linh 13


                              Trần Cung
                              (1898-1995)

            Ông Trần Cung sinh ngày 14 tháng 2 năm 1898, quê ở làng Hội Khê, xã Vũ Hội, huyện Vũ Thư, tỉnh Thái Bình. Ông tham gia Cách mạng đồng chí hội từ những năm 1929. Trong hồi ký của ông có đoạn ghi:
               “Tôi ở vùng rừng núi Chí Linh từ năm 1929, có vợ con ở đấy. Tôi giao du nhiều nơi, có nhiều bạn bè, lại bị Pháp bắt nhiều lần nên nhiều người biết. Còn có một lý do nữa là tôi làm nghề dạy học, thích thơ phú và làm câu đối. Từ sau bài “Giã lao điền phu”, làm ứng khẩu với chánh hội thì tôi lại được nhiều người biết hơn”.
               Tháng 3 năm 1930, ông tổ chức ở Chí Linh chi bộ Đọ Xá(chỉ sau hội nghị thành lập Đảng ở Hương Cảng có một tháng). Năm 1931 ông bị Pháp bắt giam ở nhà tù Hỏa Lò (Hà Nội) và sau đó lại đầy đi nhà tù Côn Đảo. Năm 1936, ông được trả tự do và trở về hoạt động công khai  ở Thái Bình. Năm 1939, ông lại bị thực dân Pháp bắt trở lại, đến năm 1944 mới được ra tù và trở về hoạt động ở vùng Chí Linh-Đông Triều, tham gia thành lập Đệ Tứ chiến khu và tổ chức cướp chính quyền ở các tỉnh vùng duyên hải.
               Trước khi về hưu ông là Viện trưởng Viện phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao. Ông mất ngày 9 tháng 10 năm 1995 tại Hà Nội, hưởng thọ 97 tuổi.
               Trong cuộc đời hoạt động cách mạng của mình, ông Trần Cung sáng tác khá nhiều thơ ca. Chúng tôi xin giới thiệu sau đây mấy bài thơ của ông:


                                    Tết nhà pha  1

                        Năm mới sang rồi, năm cũ qua,
                        Đời tù mới, cũ khéo phôi pha.
                        Nghinh tân lễ mễ khiêng ty nét, 2
                        Bái tuế lom khom bế lập là.3
                        Mặt trái đời kia toàn mặt quỷ,
                        Trò chơi xuân đó thiếu trò ma.
                        Mùi đời nếm trải ai sành sỏi?
                        Có biết mùi này… mặn nhạt a?

Chú thích:
               1- Bài này được giải nhất trong cuộc thi thơ “ Tết nhà pha” lấy vần pha, năm 1933 ở Hỏa Lò.
              2-Ty nét:Thùng phân.
             3-Lập là: Thùng gỗ vuông đựng cơm cho mười người ăn.


                             Nhớ nhà

                        Tù đảo phương trời cảnh với ta,
                        Năm lần vắng mặt tết quê nhà.
                        Năm thêm tuổi nữa con chừng lớn,
                        Ngày đuổi xuân đi vợ hẳn già!
                        Mơ tết, mơ xuân, mơ tiếng pháo,
                        Nhớ nhà, nhớ cửa, nhớ chồi đa.1
                        Hai chân một chuỗi xiềng lê nặng,
                        Ra cửa trông về cố quận xa.
                                                            Côn Đảo, 1935.
Chú thích:      1- Lộc đa = đa lộc

                             Đề lao

                        Cuộc đời chiến sĩ thật ba đào,
                        Thấm thoắt năm lần bị tống lao.
                        Nhốt chặt con người tầng cửa sắt,
                        Vây riêng cõi đất bức tường cao.
                        Mong về cũng kém mong cơm sáng,
                        Nhớ vợ còn thua nhớ thuốc lào.
                        Cá mục, cơm hôi, xiềng xích sắt,
                        “Văn minh khai hóa” gớm ghê sao ?
                                               Đề lao Thái Bình, 1939
                       
                             Trở lại gia hương 1
               
         Hôm qua mới thoát cảnh đau thương,
Ròng rã 5 năm mấy ngục đường.
Chân mới thoát xiềng, tay thoát xích,
Bước đi ngượng nghịu, óc bâng khuâng.

Hôm nay trở lại gia hương,
Vườn cau xưa đã úa tàn xác xơ.
Lũy tre già đã bơ phờ,
Bèo tây lại nở ngập bờ ao ta.

Tôi như người trong mơ,
Mừng quýnh lại buồn so,
Mừng - nhẹ mình rộng cẳng,
Buồn – tan cửa nát nhà.

           Nhà tôi người đến ở,
Về quê mà bơ vơ.

Giã từ quê cũ, con thơ,
Gửi con ở lại quê nhà lại đi.
Nín đi con khóc nữa chi,
Cờ hồng rợp đất là khi bố về.

                                                   1944
Chú thích:
               1- Theo một người cháu của ông Trần Cung cho biết thì bài thơ này tác giả viết trong hoàn cảnh vừa ra tù và trở lại gia đình riêng ở Chí Linh.

31/5/2012
Đỗ Đình Tuân 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

ĐẾM TIỀN

Ông ngồi giương kính đếm tiền Đồng tiền mỏng thế mà liền với xương Tiền này là khoản tiền lương Là tiền năm tháng chiến trường cho ta ...