Trần
Cung
(1898-1995)
Ông Trần Cung sinh ngày 14 tháng 2 năm
1898, quê ở làng Hội Khê, xã Vũ Hội, huyện Vũ Thư, tỉnh Thái Bình. Ông tham gia
Cách mạng đồng chí hội từ những năm 1929. Trong hồi ký của ông có đoạn ghi:
“Tôi ở vùng rừng núi Chí Linh từ
năm 1929, có vợ con ở đấy. Tôi giao du nhiều nơi, có nhiều bạn bè, lại bị Pháp
bắt nhiều lần nên nhiều người biết. Còn có một lý do nữa là tôi làm nghề dạy học,
thích thơ phú và làm câu đối. Từ sau bài “Giã lao điền phu”, làm ứng khẩu với
chánh hội thì tôi lại được nhiều người biết hơn”.
Tháng 3 năm 1930, ông tổ chức ở
Chí Linh chi bộ Đọ Xá(chỉ sau hội nghị thành lập Đảng ở Hương Cảng có một
tháng). Năm 1931 ông bị Pháp bắt giam ở nhà tù Hỏa Lò (Hà Nội) và sau đó lại đầy
đi nhà tù Côn Đảo. Năm 1936, ông được trả tự do và trở về hoạt động công
khai ở Thái Bình. Năm 1939, ông lại bị
thực dân Pháp bắt trở lại, đến năm 1944 mới được ra tù và trở về hoạt động ở
vùng Chí Linh-Đông Triều, tham gia thành lập Đệ Tứ chiến khu và tổ chức cướp
chính quyền ở các tỉnh vùng duyên hải.
Trước khi về hưu ông là Viện trưởng
Viện phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao. Ông mất ngày 9 tháng 10 năm 1995 tại Hà
Nội, hưởng thọ 97 tuổi.
Trong cuộc đời hoạt động cách mạng
của mình, ông Trần Cung sáng tác khá nhiều thơ ca. Chúng tôi xin giới thiệu sau
đây mấy bài thơ của ông:
Tết nhà
pha 1
Năm mới sang rồi, năm cũ
qua,
Đời tù mới, cũ khéo phôi
pha.
Nghinh tân lễ mễ khiêng
ty nét, 2
Bái tuế lom khom bế lập
là.3
Mặt trái đời kia toàn mặt
quỷ,
Trò chơi xuân đó thiếu
trò ma.
Mùi đời nếm trải ai sành
sỏi?
Có biết mùi này… mặn nhạt
a?
Chú
thích:
1- Bài này được giải nhất trong
cuộc thi thơ “ Tết nhà pha” lấy vần pha, năm 1933 ở Hỏa Lò.
2-Ty nét:Thùng phân.
3-Lập là: Thùng gỗ vuông đựng cơm
cho mười người ăn.
Nhớ nhà
Tù đảo phương trời cảnh
với ta,
Năm lần vắng mặt tết quê
nhà.
Năm thêm tuổi nữa con chừng
lớn,
Ngày đuổi xuân đi vợ hẳn
già!
Mơ tết, mơ xuân, mơ tiếng
pháo,
Nhớ nhà, nhớ cửa, nhớ chồi
đa.1
Hai chân một chuỗi xiềng
lê nặng,
Ra cửa trông về cố quận
xa.
Côn
Đảo, 1935.
Chú
thích: 1- Lộc đa = đa lộc
Đề lao
Cuộc đời chiến sĩ thật
ba đào,
Thấm thoắt năm lần bị tống
lao.
Nhốt chặt con người tầng
cửa sắt,
Vây riêng cõi đất bức tường
cao.
Mong về cũng kém mong
cơm sáng,
Nhớ vợ còn thua nhớ thuốc
lào.
Cá mục, cơm hôi, xiềng
xích sắt,
“Văn minh khai hóa” gớm
ghê sao ?
Đề lao Thái Bình, 1939
Trở
lại gia hương 1
Hôm qua mới thoát cảnh đau thương,
Ròng
rã 5 năm mấy ngục đường.
Chân
mới thoát xiềng, tay thoát xích,
Bước
đi ngượng nghịu, óc bâng khuâng.
Hôm
nay trở lại gia hương,
Vườn
cau xưa đã úa tàn xác xơ.
Lũy
tre già đã bơ phờ,
Bèo
tây lại nở ngập bờ ao ta.
Tôi
như người trong mơ,
Mừng
quýnh lại buồn so,
Mừng
- nhẹ mình rộng cẳng,
Buồn – tan cửa nát nhà.
Nhà tôi người đến ở,
Về quê mà bơ vơ.
Giã từ quê cũ, con thơ,
Gửi con ở lại quê nhà lại đi.
Nín đi con khóc nữa chi,
Cờ hồng rợp đất là khi bố về.
1944
Chú thích:
1-
Theo một người cháu của ông Trần Cung cho biết thì bài thơ này tác giả viết
trong hoàn cảnh vừa ra tù và trở lại gia đình riêng ở Chí Linh.
31/5/2012
Đỗ Đình Tuân
31/5/2012
Đỗ Đình Tuân
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét