Thứ Tư, 9 tháng 5, 2012

Dịch thơ cổ: Nguyễn Trãi 5


THƠ LÀM SAU KHI THÀNH CÔNG VÀ LÀM QUAN Ở TRIỀU (31 BÀI)

Bài 6
賀捷其一

蠢爾蠻酋敢寇邊,
積凶稔惡已多年。
九重睿念憐遐俗,
萬里鸞輿冒瘴煙。
山戍已聞收魏博,
宸奎又見刻燕然。
從今四海車書一,
盛德豐功萬古前。
                 阮廌
Phiên âm
Hạ tiệp kỳ 1
Xuẩn nhĩ man tù cảm khấu biên,
Tích hung nẫm ác dĩ đa niên.
Cửu trùng duệ niệm liên hà tục,
Vạn lý loan dư mạo chướng yên.
Sơn thú dĩ văn thu Nguỵ Bác (1),
Thần Khuê (2) hựu kiến khắc Yên Nhiên (3).
Tòng kim tứ hải xa thư nhất (4),
Thịnh đức phong công vạn cổ tiền.
                                  Nguyễn Trãi
Dịch nghĩa
Mừng vua thắng trận kỳ 1
Bọn man di ngu xuẩn sao dám quấy nhiễu biên thùy!
Đã nhiều năm tích hung dồn ác
Triều đình sáng suốt vốn thương lề thói của dân ở miền xa
Nên kiệu loan vẫn đi đến nơi sơn lam chướng khí
Nghe tin quân đồn thú đã thu được miền Ngụy Bác
Lại được biết đất Yên Nhiên cũng đã khắc sao Thần Khuê (ghi công vua, triều đình)
Từ nay các khuôn khổ xe cộ và chữ viết sẽ thống nhất
Công đức này lớn lao xưa trước không thể sánh kịp.
Ghi chú
1.Nguy Bác: một phiên trấn của Trung Quốc đời nhà Đường, do Tiết độ sứ Điền Thừa Tự trông coi, sau làm phản nhà vua phải cất quân đi đánh dẹp. Đây chỉ việc Lê Lợi đi dẹp châu Phục Lễ diệt Đèo Cát  Hãn vào năm Tân Hợi (1431). Loạt bài Hạ tiệp này viết vào dịp mừng lê Lợi thắng trận trở về.
2.Thần khuê: thần (nhà của vua) khuê (tên một ngôi sao sáng). Đây có ý tôn xưng Lê Lợi.
3.Yên Nhiên: tên một ngọn núi ở đất Ngoại Mông, nơi Bảo Hiến đời Hậu Hán (Trung Quốc) chiếm được sau khi đánh đuổi quân Hung Nô và đã khắc vào đá để ghi công. Đây chỉ việc Lê Lợi thu phục châu Phục Lễ cũng từng cho khắc hai bài thơ kỷ niệm ở Tây Bắc: một ở Lai Châu (Hoài lai cổ bi), một ở Thác Bờ (Hào tráng cổ bi).
4. Xa thư nhất: thống nhất kích cỡ xe cộ và lề lối văn tự.
Dịch thơ
Man di sao dám quấy vùng biên
Tích ác dồn hung đã mấy niên
Thấu nỗi nhà vua thương thói thục
Xe loan nghìn dặm chẳng lo phiền
Đã thu Ngụy Bác vừa hay biết
Công khắc Yên Nhiên lại thấy tin
Bốn biển từ nay về một mối
Công lao uy đức dậy trăm miền.
                         Đỗ Đình Tuân dịch

Bài 7
賀捷其二

奸臣賊子罪難容,
到底終投憲網中。
窮壤豈堪延喘息,
大庭應已奏膚公。
角聲萬里溪山月,
旗腳千岩草木風。
四海永清從此始,
榑桑早辨掛天弓。
                 阮廌
Phiên âm
Hạ tiệp kỳ 2
Gian thần tặc tử tội nan dung,
Đáo để chung đầu hiến võng trung.
Cùng nhưỡng khởi kham diên suyễn tức,
Đại đình ưng dĩ tấu phu công.
Giác thanh vạn lý khê sơn nguyệt,
Kỳ cước thiên nham thảo mộc phong.
Tứ hải vĩnh thanh tòng thử thỉ,
Phù tang (1) tảo biện quải thiên cung.
                                   Nguyễn Trãi
Ghi chú
1.Phù tang: tên một loại cây. Theo thần thoại Trung Quốc, mặt trời mọc ở chỗ có cây phù tang mọc ở ngoài biển Đông. Trong bài Đại Ngôn Phú, Tống Ngọc có câu: “Loan cung quải phù tang” (Cái cung treo trên cây phù tang). Ý nói xếp vũ khí sau khi dẹp loạn xong.
Dịch nghĩa
Mừng vua thắng trận kỳ 2
Bầy tôi làm giặc khó dung tha
Chung cuộc rồi cũng sa vào lưới
Đất cũng chẳng lẽ để chúng thoi thóp mãi
Cho nên triều đình đã báo tin thắng trận lớn
Tiếng tù và vang lên muôn dặm dậy ánh trăng khe núi
Bóng cờ cùng cây cối lay trong gió khoảng nghìn non
Từ nay bốn bề sẽ yên lặng mãi
Cây cung trời sớm mắc trên cây phù tang.
Dịch thơ
Bề tôi làm giặc khó dung tha
Chung cuộc rồi bay cũng lưới sa
Đất chẳng để cho thoi thóp mãi
Triều đình thắng trận báo tin ra
Tù và vạn dặm vang trăng núi
Cờ xí nghìn non rợp cỏ hoa
Bốn biển từ nay yên lặng mãi
Cung trời treo ngọn phù tang xa
                       Đỗ Đình Tuân dịch

Bài 8
賀捷其三

聖朝柔遠憫昏愚,
奈爾無知自殞軀。
累世仇深憐鏡怨,
欺天罪大鬼神誅。
莫將前世扳今代,
不作忠臣效逆囚。
為報後來藩鎮者,
征輪覆轍在前途。
               阮廌
Phiên âm
Hạ tiệp kỳ 3
Thánh triều nhu viễn mẫn hôn ngu,
Nại nhĩ vô tri tự vẫn khu.
Lũy thế cừu thâm lân cảnh oán,
Khi thiên tội đại quỷ thần tru.
Mạc tương tiền thế ban kim đại,
Bất tác trung thần hiệu nghịch tù.
Vị báo hậu lai phiên trấn giả,
Chinh luân phúc triệt tại tiền đồ.
                                   Nguyễn Trãi
Dịch nghĩa
Mừng vua thắng trận kỳ 3
Thánh triều vỗ về người xa, thương hại kẻ ngu dốt
Sao các người chẳng biết lại tự hại thân?
Thù oán gây quá nhiều đời, chung quanh đều ta thán
Khinh mạn trời là tội lớn quỷ thần không tha
Chớ lấy việc đời trước mà níu kéo việc đời nay
Không chịu làm trung thần, lại làm kẻ phản nghịch
Để báo cho kẻ đến phiên trấn sau này biết
Cái vết xe đổ ở đường trước kia.
Dịch thơ
Thánh triều thương hại kẻ đần xa
Sao chẳng biết điều tự hại a
Gây oán nhiều đời bao oán thán
Khinh trời tội lớn ắt không tha
Việc đời ngày trước nay đâu giống
Chẳng chịu trung lương lại nghịch tà
Những kẻ trấn phiên sau hãy biết
Vết xe đổ trước chớ đi qua.
                           Đỗ Đình Tuân dịch
                      
Bài 9
賀捷其四

欺天罔上謂天高,
天網恢恢更莫逃。
戶外重山空設險,
林間棲鳥不歸巢。
蠻溪路遠紆鸞馭,
玉帳謀深出虎韜。
四海只今俱帖靜,
預知後逸本先勞。
                   阮廌
Phiên âm
Hạ tiệp kỳ 4
Khi thiên võng thượng vị thiên cao,
Thiên võng khôi khôi cánh mạc đào.
Hộ ngoại trùng sơn không thiết hiểm,
Lâm gian thê điểu bất quy sào.
Man khê lộ viễn vu loan ngự,
Ngọc trướng mưu thâm xuất hổ thao.
Tứ hải chỉ kim câu thiếp tĩnh,
Dự tri hậu dật bổn tiên lao.
                              Nguyễn Trãi
Dịch nghĩa
Mừng vua thắng trận kỳ 4
Dối Trời lừa vua rồi bảo rằng Trời cao
Lưới Trời lồng lộng khó mà trốn thoát
Núi non trùng điệp dựng ngay trước cửa cũng chẳng được gì
Chim ở ngay trong rừng còn không về tổ được
Khe núi gây khó khăn cho đường xe kiệu loan
Từ trong trướng ngọc đã có mưu lược xuất quân
Bốn bể từ nay sẽ yên tĩnh
Biết trước rằng muốn sau được nhàn tức trước phải nhọc.
Dịch thơ
Dối trời lừa đất bảo trời cao
Lòng lộng lưới buông khó thoát nào
Trước cửa núi non mà chẳng hiểm
Trong rừng chim chóc tổ khôn vào
Kiệu loan trắc trở vì khe núi
Trướng ngọc mưu thâm sẵn lược thao
Bốn biển từ nay yên tĩnh cả
Muốn nhàn sau trước phải gian lao.
                          Đỗ Đình Tuân dịch

Bài 10
周公輔成王圖

懿親輔政想周公,
處變誰將伊尹同。
玉几遺言常在念,
金藤故事感言功。
安危自任扶王室,
左右無非保聖躬。
子孟豈能占彷彿,
擁昭僅可挹餘風。
                 阮廌
Phiên âm
Chu Công phụ Thành Vương đồ
Ý thân phụ chính, tưởng Chu Công (1),
Xử biến thùy tương Y Doãn (2) đồng.
Ngọc kỷ (3) di ngôn thường tại niệm,
Kim đằng (4) cố sự cảm ngôn công.
An nguy tự nhiệm phò vương thất,
Tả hữu vô phi bảo thánh cung.
Tử Mạnh (5) khởi năng chiêm phưởng phất,
Ủng Chiêu cẩn khả ấp dư phong.
                                      Nguyễn Trãi
Ghi chú
1.Chu Công: tức Chu Công Đán, con vua Văn Vương, em của Võ Vương nhà Chu (Trung Quốc) ở vai trò chú làm nhiếp chính cho cháu là Thành Vương lên ngôi lúc còn nhỏ, bị chính em ruột mình là Quản Thúc gièm pha và phản loạn, Chu Công đã phải cất quân đánh dẹp giúp Thành Vương.
2. Y Doãn: một hiền sĩ cày ruộng đời nhà Thương (TRung Quốc), vua phải vời ba lần mới chịu nhận chức Tể tướng, đủ tài bình trị quốc dân.
3.Ngọc kỷ: ghế vua ngồi có nạm ngọc, tương đương như ngai  vàng không chính thức.
4.Kim đằng: sợi dây vàng buộc chiếc hòm lưu giữ các bảng ghi công đức quần thần để ở nhà Thái Miếu. Đây nhắc lại trường hợp em vua Võ Vương nhà Chu là Chu Công Đán dâng sớ xin chết thay vua khi vua (cháu ruột của ông) bị bệnh nặng. Tờ sớ nghĩa ấy được cất vào hòm ghi công.
5. Tử Mạnh: tên tự của Hoát Quan, phục ba đời vua Hán là Vũ Đế, Chiêu Đế (Chiêu Ủng trong bài thơ) và Tuyên Đế, với những chức Đô Úy, Đại Tư Mã, Đại Tướng Quân, nắm hết triều đình. Sauk hi chết Tuyên Đế thu hết quyền trong tay của những người trong tộc đảng của ông trong triều, lấy cớ là mưu phản và tru di cả họ nhà ông. Riêng phần Tử mạnh được vua ghi công nghiệp trước và cho họa hình treo ở Kỳ Lân các.
Dịch nghĩa:
Tranh vẽ Chu Công giúp Thành Vương
Người làm công việc phụ chánh tốt đẹp nghĩ đến Châu Công
Xử sự ứng biến giống như Y Doãn
Lời bệ ngọc để lại luôn luôn để dạ
Những việc cũ ghi trong hòm vàng đâu dám lấy để xưng công?
Tự nguyện phò Vương thất lúc an nguy
Bên tả cũng như bên hữu, không phía nào là không giữ gìn cho Thánh chúa
Tử Mạnh phỏng có thể được xem tương tự như vậy chăng?
Việc phò Chiêu Đế cũng chỉ có thể đứng nhường dưới gió thôi.
Dịch thơ
Phò vua tốt nhớ Chu Công
Cương nhu Y Doãn sánh cùng vậy chăng
Di ngôn luôn để bên lòng
Dây vàng không tự kể công lao mình
An nguy giúp nước tận tình
Đôi bên tả hữu giữ gìn thân vương
Khi xưa Tử Mạnh sao bằng
Giúp vua Chiêu Đế cũng nhường phần hơn.
                              Đỗ Đình Tuân dịch

10/5/2012
Đỗ Đình Tuân

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

ĐẾM TIỀN

Ông ngồi giương kính đếm tiền Đồng tiền mỏng thế mà liền với xương Tiền này là khoản tiền lương Là tiền năm tháng chiến trường cho ta ...