Thứ Hai, 7 tháng 5, 2012

Dịch thơ cổ: Nguyễn Trãi 4


THƠ LÀM SAU KHI THÀNH CÔNG VÀ LÀM QUAN Ở TRIỀU (31 BÀI)

Bài 1
上元扈駕舟中作

沿江千里燭光紅,
彩鷁乘風跨浪篷。
十丈樓臺消蜃氣,
三更鼓角壯軍容。
滄波月浸玉千頃,
仙杖雲趨天九重。
五夜篷窗清夢覺,
猶疑長樂隔花鐘
Phiên âm
Thượng nguyên hộ giá chu trung tác
Duyên giang thiên lý chúc quang hồng,
Thái nghịch  (1) thừa phong khoá lãng bồng.
Thập trượng lâu đài tiêu thẫn khí,
Tam canh cổ giác tráng quân dung.
Thương ba nguyệt tẩm ngọc thiên khoảnh,
Tiên trượng vân xu thiên cửu trùng (2).
Ngũ dạ bồng song thanh mộng giác,
Do nghi Trường Lạc (3) cách hoa chung.
                                         Nguyễn Trãi
Ghi chú
1.Thái nghịch: tên đặt cho chiếc thuyền có vẽ hình chim nghịch sặc sỡ.
2.Cửu trùng: chín lớp, chỉ nơi cung điện thâm nghiêm, phải qua chín lớp cửa mới đến được
3.Trường Lạc: tên một cung điện của nhà Hán xưa ở trong thành Tràng An (Thiểm Tây, Trung Quốc), cùng với cung Vị Ứng là nơi xưa Hán Cao Tổ tiếp quần thần chư hầu.
Dịch nghĩa
Nghìn dặm ven sông ánh đuốc sáng tỏ
Chiếc thuyền vẽ hình chim nghịch thuận gió lướt sóng đi
Lâu đài mười trượng đã tiêu hết khí bẩn
Tiếng trống và tù và suốt ba canh làm cho dáng vẻ quân đội mạnh mẽ hơn lên
Sóng nước xanh ngâm ánh trăng như ngọc nghìn mảnh
Gậy tiên lướt như trên mây bay cao trên chín tầng trời
Nằm đêm bên song cửa thuyền tỉnh cơn mộng nhẹ
Còn ngỡ là nghe tiếng chuông vang cách hoa ở cung điện Trường Lạc.
Dịch thơ
Nghìn dặm ven sông đuốc sáng hồng
Nghịch thuyền thuận gió lướt trên sông
Lâu đài muôn trượng tan hơi bẩn
Cổ giác ba canh tráng sĩ hùng
Sóng nước ngâm trăng ngọc vạn mảnh
Gậy tiên lướt gió chín tầng không
Bên song vừa tỉnh cơn mơ nhẹ
Cứ ngỡ như đang Trường Lạc cung.
                           Đỗ Đình Tuân dịch

Bài 2
觀閱水陣

北海當年已戮鯨,
燕安猶慮詰戎兵。
旌旗旖旎連雲影,
鼙鼓喧闐動地聲。
萬甲耀霜貔虎肅,
千艘布陣鸛鵝行。
聖心欲與民休息,
文治終須致太平。
                 阮廌
Phiên âm
Quan duyệt thuỷ trận
Bắc hải đương niên dĩ lục kình (1),
Yến an do lự cật nhung binh.
Tinh kỳ y nỉ liên vân ảnh,
Bề cổ huyên điền động địa thanh.
Vạn giáp diệu sương tỳ hổ (2) túc,
Thiên sưu bố trận quán nga (3) hành.
Thánh tâm dục dữ dân hưu tức,
Văn trị (4) chung tu trí thái bình.
                             Nguyễn Trãi
Ghi chú
1.Kình: đây ngụ ý chỉ thuyền bè của địch
2.Tỳ hổ: tỳ là một loại thú giống beo; hổ là cọp; Tỳ hổ ngụ ý chỉ quân lính dũng mãnh.
3.Quán nga: quán, một loại chim giống hạc. Nga, một loại chim giống nhạn như lớn hơn. Ở đây ví với thuyền bè và dáng vẻ xinh đẹp.
4.Văn trị: cai trị bắng nền văn, trái với võ trị: cai trị bằng quân sự.
Dịch nghĩa
Xem tập trận dưới nước
Biển bắc năm ấy đã diệt cá kình
Yên ổn vẫn còn phải lo luyện binh
Cờ xí bay phấp phới liền với bóng mây
Trống trận nhiều làm huyên náo rung động cả đất
Muôn binh giáp sáng ngời dưới sương, quân dõng mãnh (như loài tỳ, hổ)
Nghìn thuyền dàn trận thành hàng (như chim quán, chim nga)
Lòng Thánh muốn cùng dân nghỉ ngơi
Rốt cuộc nên xây dựng thái bình bằng văn trị.
Dịch thơ
Biển Bắc năm xưa diệt cá kình
Muốn yên cần phỉa luyện quân binh
Cờ bay phấp phới mây liền tiếp
Trống trận ầm vang đất rập rình
Binh giáp sáng ngời quân dũng mãnh
Nghìn thuyền dàn trận hạc giăng thành
Lòng vua muốn cùng dân vui hưởng
Văn trị đem xây đời thái bình.
                         Đỗ Đình Tuân dịch

Bài 3
賀歸藍山其一

權謀本是用除姦,
仁義維持國勢安。
臺閣有人儒席煖,
邊陲無事柳營閒。
遠方玉帛圖王會,
中國威儀睹漢官。
朔祲已清鯨浪息,
南州萬古舊江山。
                 阮廌
Phiên âm
Hạ quy Lam Sơn (1) kỳ 1
Quyền mưu bổn thị dụng trừ gian,
Nhân nghĩa duy trì quốc thế an.
Đài các (2) hữu nhân nho tịch noãn,
Biên thùy vô sự liễu doanh nhàn.
Viễn phương ngọc bạch đồ vương hội (3),
Trung quốc uy nghi đổ Hán quan (4).
Sóc tẩm (5) dĩ thanh kình lãng (6) tức,
Nam châu vạn cổ cựu giang san.
                                 Nguyễn Trãi
Ghi chú
1.Lam Sơn: Lam Sơn: Làng Lam Sơn thuộc huyện Thụy Nguyên, phủ Thiệu Hóa, tỉnh Thanh Hóa. Cũng là tên núi Lam Sơn, nơi Lê Lợi khởi binh đánh quân Minh. Bài này nói về Lê Lợi.
2.Đài các: lâu đài, chỉ các công hầu khanh tướng. Cả câu ý nói khi giới công hầu bá tử đoàn kết thì giới nhà nho được yên thân.
3.Đồ vương hội: Bức họa vẽ cảnh triều đình có chư hầu vào chầu. Vương hội là một chương trong kinh Thượng thư, nói về Chu công giúp Vũ Vương dựng xong Tây Đô, đón cả man di vào chầu.
4.Hán quan: Tác giả mượn sử Trung Quốc nói rằng nước này thịnh nhất vào thời Hán vì cai trị tốt.
5.Sóc tẩm: khí yêu quái phương bắc, ngụ ý nạn xâm lăng từ phương bắc.
6.Kình lãng: làn sóng cá kình ám chỉ quân Minh hung bạo.
Dịch nghĩa
Mừng về Lam Sơn kỳ 1
Quyền mưu vốn là để trừ gian
Nhân nghĩa giữ cho thế nước được yên
Chốn sang trọng có người (công hầu bá tử) tất chiếu nhà nho ấm
Nơi biên thùy không có việc thì doanh trại nhàn
Phương xa dâng ngọc và lụa, vẽ cảnh hội nhà vua
Trung quốc uy nghi được thấy lại quan nhà Hán (xây dựng tốt)
Yêu khí phương bắc đã dẹp xong, sóng gió loạn lạc đã lặng
Đất Nam châu vẫn giữ giang sơn muôn thuở. 
Dịch thơ
Quyền mưu vốn để diệt trừ gian
Nhân nghĩa giữ cho thế nước an
Công sở có người nhà nho ấm
Biên cương vô sự tướng quân nhàn
Phương xa dâng ngọc vẽ triều hội
Trung quốc lại như thấy Hán quan
Phương bắc dẹp yên bờ cõi lặng
Nam châu muôn thuở vững giang san.
                              Đỗ Đình Tuân dịch

Bài 4
賀歸藍山其二

憶昔藍山玩武經,
當時志已在蒼生。
義旗一向中原指,
廟算先知大事成。
月竁日城歸德化,
卉裳椎髻識威聲。
一戎大定何神速,
甲洗弓囊樂太平。
                 阮廌
Phiên âm
Hạ quy Lam Sơn kỳ 2
Ức tích Lam Sơn ngoạn Vũ Kinh,
Đương thời chí dĩ tại thương sinh.
Nghĩa kỳ nhất hướng trung nguyên chỉ,
Miếu toán tiên tri đại sự thành.
Nguyệt xuế nhật thành (1) quy đức hoá,
Huỷ thường chuỳ kế (2) thức uy thanh.
Nhất nhung đại định hà thần tốc,
Giáp tẩy cung nang lạc thái bình.
                                      Nguyễn Trãi
Ghi chú
1.Nguyệt xuế nhật thành: ý nói nơi xa xôi hẻo lánh. Theo Từ Hải, nguyệt xuế là đất cực tây, còn Nhật thành có hai nghĩa: 1: nơi mặt trời mọc; 2: vùng có ánh sáng mặt trời chiếu đến.
2.Hủy thường chùy kế: áo quần bằng cỏ, đầu tóc búi hnhf cái chùy, chỉ những dân miền thượng du.
Dịch nghĩa
Mừng về Lam Sơn kỳ 2
Nhớ xưa ở đất Lam Sơn xem sách vở (chiến thuật, chiến lược)
Bấy giờ cũng đã vì dân đen rồi
Cờ nghĩa một khi đã hướng về trung nguyên  
Việc bói toán ở tổ miếu đã cho biết trước sự thành công  
Từ chỗ xa xôi hẻo lánh (hang mặt trăng, thành mặt trời) dân cũng đã hóa theo đức  
Dân sơn cước (áo cỏ, tóc chùy) cũng biết uy danh  
Một cuộc dấy binh mà bình định sao nhanh thế!
Hãy tẩy áo giáp, cho cung vào nang để hưởng thái bình.
Dịch thơ
Lam Sơn ngày trước đọc binh thư
Chí đã vì dân tự bấy giờ
Từ lúc trung nguyên cờ chỉ hướng
Đã hay khôi phục được sơn hà
Xa xôi hẻo lánh đều theo đức
Áo cỏ tóc chùy thảy biết vua
Một cuộc dấy binh nhanh chóng vậy
Treo cung rửa giáp hưởng an hòa.
                       Đỗ Đình Tuân dịch

Bài 5
題劍

藍山自昔臥神龍,
世事懸知在掌中。
大任有歸天啓聖,
昌期一遇虎生風。
國讎洗盡千年恥,
金匱終藏萬世功。
整頓乾坤從此了,
世間那更數雄英。
                 阮廌
Phiên âm
Đề kiếm
Lam Sơn (1) tự tích ngoạ thần long (2)
Thế sự huyền tri tại chưởng trung
Ðại nhiệm hữu quy thiên khải thánh (3)
Xương kỳ nhất ngộ hổ sinh phong (4)
Quốc thù tẩy tận thiên niên sỉ
Kim quỹ (5)chung tàng vạn thế công
Chỉnh đốn càn khôn tòng thử liễu
Thế gian na cánh sổ anh hùng.
                                  Nguyễn Trãi
Ghi chú
1.Lam Sơn: tên một ngọn núi thuộc huyện Thọ Xuân, tỉnh Thanh Hóa. Năm 1418 (Mậu Tuất) Lê Lợi khởi nghĩa ở đây.
2.Ngọa long : vốn chỉ Khổng Minh Gia Cát Lượng, ở đay chỉ Lê Lợi thời còn ở núi rừng Lam Sơn.
3.Thiên khải thánh: Trời bảo cho thánh nhân (Lê Lợi) biết. Ở đây chỉ việc Lê Lợi được trời cho kiếm thần, trên có chữ Thuận Thiên và Lợi. Năm 1428, Lê Lợi lên ngôi lấy hiệu là Thuận Thiên.
4.Kim quỹ: gốc từ chữ “kim quỹ thạch thất” là rương làm bằng vàng, nhà xây bằng âng của côngđá để cất giữ sử sách. Vua Cao Tổ nhà hán dùng trap bằng vàng để cất giữ những biểu dương của công thần.
Dịch nghĩa
Đề kiếm
Từ xưa khi rồng thiêng còn nằm ở Lam Sơn
Mà việc đời huyền nhiệm đã biết rõ ở trong lòng bàn tay
Khi gánh nặng trao về một người thì trời báo cho thánh nhân biết
Khi đời thịnh được gặp thì hổ sinh ra gió
Đã rửa sạch nỗi nhục ngàn năm của thù nước
Cuối cùng đã cất giữ cái công muôn thuở trong rương vàng
Từ nay việc chỉnh đốn đất trời đã xong
Trên đời rút cuộc có được mấy người anh hùng như thế ?
Dịch thơ  
Từ khi còn ở đất lam Sơn
Huyền nhiệm việc đời đã biết luôn
Sứ mệnh được trao trời báo trước
Vận hưng gặp hổ gió sinh cơn
Ngàn năm rửa sạch hờn non nước
Muôn thuở rương vàng giữ quốc ơn
Chỉnh đốn đất trời nay kết quả
Anh hùng hỏi có mấy ai hơn ?
                       Đỗ Đình Tuân dịch

7/5/2012
Đỗ Đình Tuân

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

ĐẾM TIỀN

Ông ngồi giương kính đếm tiền Đồng tiền mỏng thế mà liền với xương Tiền này là khoản tiền lương Là tiền năm tháng chiến trường cho ta ...