Thứ Sáu, 4 tháng 5, 2012

Dịch thơ cổ: Nguyễn Trãi 3


THƠ LÀM TRONG KHI CHƯA THÀNH CÔNG (17 BÀI)

Bài 11

歸昆山舟中作
十年飄轉嘆蓬萍,
歸思搖搖日似旌。
幾托夢魂尋故里,
空將血淚洗先塋。
兵餘斤斧嗟難禁,
客裡江山只此情。
鬱鬱寸懷無奈處,
船窗推枕到天明
                  阮廌
Phiên âm
Quy Côn Sơn (1) chu trung tác
Thập niên phiêu chuyển thán bồng bình,
Quy tứ dao dao nhật tự tinh.
Kỷ thác mộng hồn tầm cố lý,
Không tương quyết lệ tẩy tiên doanh (2)
Binh dư cân phủ (3)ta nan cấm,
Khách lý giang sơn chỉ thử tình.
Uất uất thốn hoài vô nại xứ,
Thuyền song thôi chẩm đáo thiên minh.
                                          Nguyễn Trãi
Ghi chú
1.Côn Sơn: Một ngọn núi ở xã Chí Ngại, huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương (Bắc Việt), trên núi có động Thanh Hư, dưới có cầu Thấu Ngọc, đều là thắng cảnh (theo sách Quảng Dư Chí). Đời Trần, Trúc Lâm thiền sư dựng am ở đây, và trạng nguyên Lý Đạo Tái (tức sư Huyền Quang) sau khi từ chức trở về nhập thiền và trụ trì chùa Ân Tứ ở núi này. Triều Trần, quan Tư đồ Trần Nguyên Đán, ông ngoại của Nguyễn Trãi, thường ngâm thơ uống rượu ở núi Côn Sơn sau khi từ chức vì can gián Hồ Quý Ly chuyên quyền mà không được. Tác giả từng thừa hưởng cơ ngơi của ngoại tổ.
2.Tiên doanh: bản Đào Duy Anh phiên là uynh, có bản phiên là huỳnh.
3.Cân phủ: rìu búa. Đây ý nói hình phạt sau thời loạn.
Dịch nghĩa
Làm khi đi thuyền về Côn Sơn
Mười năm phiêu dạt như cỏ bồng cánh bèo
Ý muốn trở về ngày nào cũng nao nao (như cờ dựng trong trí)
Bao lần gửi hồn trong mộng về làng cũ
Mang bằng tưởng tượng huyết lệ về tẩy mộ tổ tiên
Than ôi, sau loạn lạc làm sao cấm cản được vụ búa rìu?
Trong cảnh khách này chỉ có mối tình ấy với giang sơn
Tấc lòng u uất thật khó xử
Song cửa thuyền lay gối mãi đến sáng trời.
Dịch thơ
Phiêu dạt mười năm khắp nước mây
Lòng về phây phẩy tựa cờ bay
Tìm quê bao lượt trong hồn mộng
Rửa mộ mấy lần lệ huyết cay
Rìu búa tránh sao sau loạn lạc
Non sông đất khách tấm son này
Nỗi lòng u uất khôn bày tỏ
Lay gối bên song đến sáng ngày.
                          Đỗ Đình Tuân dịch

Bài 12
亂後到崑山感作
一別家山恰十年,
歸來松匊半翛然。
林泉有約那堪負,
塵土低頭只自憐。
鄕里纔過如夢到,
干戈未息幸身全。
何時結屋雲峰下,
汲澗烹茶枕石眠。
                  阮廌
Phiên âm
Loạn hậu đáo Côn Sơn cảm tác
Nhất biệt gia sơn kháp thập niên,
Quy lai tùng cúc bán tiêu nhiên.
Lâm tuyền hữu ước na kham phụ,
Trần thổ đê đầu chỉ tự liên.
Hương lí tài qua như mộng đáo,
Can qua vị tức hạnh thân tuyền (toàn).
Hà thời kết ốc vân phong hạ,
Cấp giản phanh trà chẩm thạch miên.
                                       Nguyễn Trãi
Dịch nghĩa
Sau loạn về Côn Sơn cảm tác
Từ giã quê hương vừa đúng mười năm
Nay trở về, tùng cúc một nửa đã tiêu sơ
Đã hẹn với rừng suối mà sao nỡ phụ
Trong cát bụi cúi đầu tự thương mình
Vừa qua làng, tưởng như chiêm bao
Chiến tranh chưa dứt, may được toàn thân
Bao giờ được làm nhà dưới núi mây
Múc nước suối nấu trà, gối lên đá mà ngủ.
Dịch thơ
Vừa chẵn mười năm biệt xóm làng
Nay về tùng cúc nửa sơ hoang
Suối rừng có ước mà sao phụ
Cát bụi cúi đầu chỉ tự thương
Thôn xóm vừa qua như mộng đến
Can qua chưa dứt một thân còn
Bao giờ dưới núi làm nhà ở
Nước suối pha trà ngủ giấc ngon?
                        Đỗ Đình Tuân dịch

Bài 13
關海
樁木重重海浪前,
沉江鐵鎖亦徒然。
覆舟始信民猶水,
恃險難憑命在天。
禍福有媒非一日,
英雄遺恨幾千年。
乾坤今古無窮意,
卻在滄浪遠樹煙。
                  阮廌
Phiên âm
Quan hải (1)
Thung mộc trùng trùng hải lãng tiền,
Trầm giang thiết toả diệc đồ nhiên.
Phúc chu thuỷ tín dân do thuỷ(2)
Thị hiểm nan bằng mệnh tại thiên.
Hoạ phúc hữu môi phi nhất nhật,
Anh hùng di hận kỉ thiên niên.
Kiền khôn kim cổ vô cùng y,
Khước tại Thương Lang (3)iễn thụ yên.
                                      Nguyễn Trãi
Dịch nghĩa
Đóng cửa bể
Cọc gỗ lớp lớp trồng trước sóng biển
Xích sắt cũng được trầm dưới nước để phong toả như thế
Thuyền có bị lật mới biết rằng dân chẳng khác gì nước
Cậy vào địa thế hiểm trở cũng khó bằng mệnh trời
Họa phúc đều có duyên do, đâu phải chỉ một ngày
Anh hùng để lại mối hận nghìn năm
Xưa nay ý trời đất thì vô cùng tận
Lui về chốn cây cỏ mây trời ở đất Thương Lang xa xôi.

Ghi chú
1. Bài này nói về Hồ Quý Ly chống Minh giỏi nhưng không được dân ủng hộ, do đấy cuối cùng phải thất bại.
2.Phúc chu thủy tín dân do thủy: Tuân Tử, triết gia nước Triệu, Trung Quốc (giữa thế kỷ 4 và 3 trước Công nguyên) có câu: “ Dân do thủy dã, thủy năng tải châu, nhi năng phúc châu” ( Dân cũng như nước, nước chở thuyền được mà cũng làm đắm thuyền được). Tác giả ngụ ý nói về chính sách trị dân của Hồ quý ly không được lòng dân.
3. Thương lang: Phần hạ lưu sông Hán (Trung Quốc). Bài ca Ngư phủ trong Sở từ của Khuất Nguyên có câu: “ Thương lang chi thủy thanh hề, khả dĩ tạc ngã anh / Thương lang chi thủy trọc hề, khả dĩ trạc ngã túc” ( Dòng nước thương lang trong ư? Ta có thể giặt dải mũ / Dòng nước Thương lang đục ư? Ta có thể rửa chân). Trong thơ văn thường dùng để chỉ nơi ẩn dật.
Dịch thơ
Cọc gỗ trùng trùng ngăn cửa biển
Dưới sông xích sắt khóa giăng liền
Lật thuyền mới rõ dân như nước
Cậy hiểm sao bằng mệnh ở thiên
Họa phúc có nguồn không phải ngắn
Anh hùng để hận mấy nghìn niên
Xưa nay trời đất vô cùng ý
Cây khói thương lang ấy toại nguyền.
                            ĐỖ Đình Tuân dịch

Bài 14
林港夜泊
港口咱潮暫繫舠,
韽韽隔岸響蒲牢。
船窗客夜三更雨,
海曲秋風十丈濤。
膜外虛名身是幻,
夢中浮俗事堪拋。
一生氣習渾如昨,
不為羈愁損舊豪。
                 阮廌
Phiên âm
Lâm cảng (1) dạ bạc
Cảng khẩu thanh triều tạm hệ đao,
Am am cách ngạn hưởng bồ lao (2)
Thuyền song khách dạ tam canh vũ,
Hải khúc thu phong thập trượng đào.
Mạc ngoại hư danh thân thị huyễn,
Mộng trung phù tục sự kham phao.
Nhất sinh khí tập hồn như tạc,
                                 Nguyễn Trãi
Ghi chú
1. Lâm cảng: vũng Lâm, chỗ sông Thần phù, chảy qua xã Lâm Ngọc trước khi đổ ra biển (có lẽ do đấy mà mang tên Lâm cảng). Chỗ này có một con lạch ngày xưa Hồ Quý Ly cho đỗ đá lấp để chống giặc Minh, nay đã thành đất bằng, chỉ còn một cái đầm.
2.Bồ lao: tên một giống thú ở biển rất sợ cá voi. Hễ bị tấn công thường kêu rất lớn. Vì thế người ta thường lấy hình con bồ lao đúc lên đầu chuông để chuông kêu to. Tác giả dùng “bồ lao” để chỉ cái chuông.
Dịch nghĩa
Đêm đậu thuyền tại vũng Lâm
Đến cửa khẩu nghe thấy triều tạm buộc thuyền con
Văng vẳng bên kia bờ nghe tiếng chuông
Bên cửa thuyền khách mưa rơi suốt ba canh
Trong vịnh biển gió thu thổi dâng sóng lên cao mười trượng
Danh hảo bỏ ra ngoài, thân này cũng là ảo
Đời phù dung tục lụy trong giấc mộng đáng bỏ đi
Một đời vẫn giữ quen cái nết ngày trước
Chẳng phải vì mối sầu xa quê hương mà giảm chí khí cũ.
Dịch thơ
Nghe triều tạm buộc thuyền con
Cách bờ văng vẳng tiếng chuông vọng ngoài
Cửa thuyền mưa suốt đêm dài
Gió thu vịnh biển sóng mười trượng cao
Thân hư danh hão màng bao
Chuyện đời phù tục khác nào trong mơ
Một đời quen giữ nếp xưa
Xa nhà sầu nhớ nhưng chưa nản lòng.
                            Đỗ Đình Tuân dịch

Bài 15
神符海口
故國歸心落雁邊,
秋風一葉海門船。
鯨噴浪吼雷南北,
槊擁山連玉後前。
天地多情恢巨浸,
勳名此會想當年。
日斜倚棹滄茫立,
冉冉寒江起暮煙
                 阮廌
Phiên âm
Thần Phù (1) hải khẩu
Cố quốc quy tâm lạc nhạn biên,
Thu phong nhất diệp hải môn thuyền.
Kình  phun lãng hống lôi nam bắc,
Sóc  ủng sơn liên ngọc hậu tiền.
Thiên địa đa tình khôi cự tẩm,
Huân danh thử hội tưởng đương niên.
Nhật tà ỷ trạo thương mang lập,
Nhiễm nhiễm hàn giang khởi mộ yên.
                                        Nguyễn Trãi
Ghi chú
1. Thần Phù một hải khẩu tại huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hóa. Theo sách Đại Nam Nhất Thống Chí, xưa đoàn chiến thuyền của vua Hùng Vương qua đây bị gió chướng, nhờ một đạo sĩ tên là La Viên dùng phép làm biển lặng giúp vượt qua. Khi trở về không thấy ân nhân nữa, vua bèn phong cho Người là Áp Lăng Chân Nhân (vị chân nhân dằn được sóng) và lập đền thờ bên bờ cửa khẩu. Vua Lê Thánh Tông về sau khi qua cửa Thần Phù cũng đã làm thơ lưu niệm.

Dịch nghĩa
Cửa khẩu Thần Phù
Theo cánh nhạn hướng lòng về quê cũ
Chiếc thuyền lan ở cửa biển như chiếc lá trong gió thu
Sóng tung như cá kình, sấm dậy ở phía nam cũng như phía bắc
Núi liên tiếp như giáo ngọc dựng trước lẫn sau
Trời đất đã cố tình mở ra vịnh lớn
Công danh gặp hội nhớ lại năm nào
Chiều tà dựa vào cột chèo nhìn cảnh bát ngát
Dòng sông lạnh mênh mông trong khói mù.
Dịch thơ
Cánh nhạn lòng theo cố quốc xa
Thuyền con một lá gió thu qua
Sóng kình nam bắc vang rền sấm
Núi giáo trước sau dựng vách ngà
Trời đất có tình sinh vịnh lớn
Công danh gặp hội nghĩ đây mà
Chiều tà bát ngát nhìn mây nước
Sông lạnh dần sinh nhuốm khói nhòa.
                         Đỗ Đình Tuân dịch

Bài 16
海口夜泊有感
一別江湖數十年,
海門今日繫吟船。
波心浩渺滄洲月,
樹影參差浦漵煙。
往事難尋時易過,
國恩未報老堪憐。
平生獨抱先憂念,
坐擁寒衾夜不眠
                 阮廌
Phiên âm
Hải khẩu dạ bạc hữu cả
Nhất biệt giang hồ sổ thập niên,
Hải môn kim nhật hệ ngâm thuyền.
Ba tâm hạo diểu thương châu nguyệt
Thụ ảnh sâm si phố tự yên.
Vãng sự nan tầm thời dị quá.
Quốc ân vị báo lão kham liên.
Bình sinh độc bão tiên ưu niệm,
Toạ ủng hàn khâm dạ bất
                               Nguyễn Trãi
Dịch nghĩa
Cảm hứng đêm đậu thuyền ở cửa biển
Từ ra đi lưu lạc giang hồ đã mấy mươi năm
Tối nay buộc thuyền thơ nơi cửa biển
Đáy nước mênh mang, trăng chiếu trên bãi lạnh
Hình dáng cây cối lô nhô, khói phủ trên bến
Khó tìm nhớ lại việc xưa, thời gian trôi quá dễ
Tự thương xót mình đã già mà ơn nước chưa đền
Bình sinh một mình ôm cái chí lo truớc hưởng sau
Ngồi cuốn chăn lạnh thức suốt đêm.
Dịch thơ
Mấy chục năm lưu lạc hải hồ
Hôm nay cửa biển buộc thuyền thơ
Mênh mông đáy nước trăng soi bãi
Lố nhố hàng cây khói phủ bờ
Việc cũ khó tìm thời vụt biến
Ơn vua chưa báo chỉ thương ta
Hưởng sau lo trước hằng ôm chí
Chăn lạnh ngồi ôm đến sáng ra.
                       Đỗ Đình Tuân dịch

Bài 17
龍岱岩
去年虎穴我曾窺,
龍岱今觀石窟奇。
鰲負出山山有洞,
鯨遊塞海海為池。
壼中日月天難志,
世上英雄此一時。
黎范風流嗟漸遠,
青苔半蝕璧間詩。
               阮廌
Phiên âm
Long Đại Nham
Khứ niên hổ huyệt (1)ngã tằng khuy,
Long Đại (2) kim quan thạch quật  kỳ.
Ngao (3) phụ xuất sơn, sơn hữu động,
Kình (4)  du tắc hải, hải vi trì.
Hồ (5) trung nhật nguyệt thiên nan lão,
Thế thượng anh hùng thử nhất thì.
Lê Phạm (6) phong lưu ta tiệm viễn,
Thanh đài bán thực bích gian thi.
                                     Nguyễn Trãi
Ghi chú
1.Hổ huyệt: hang hùm, ngụ ý chỉ quân Minh ở Đông Đô (Hà Nội ngày nay)
2.Long Đại: tên cũ của núi Hàm Rồng (Thanh Hóa)
3.Ngao: Loài rù lớn ở biển
4.Kình: cá voi
5.Hồ: cái bầu. Theo sách Lão giáo, xưa có người tên là Trương Thân,có cái bầu lớn, có thể hóa thành trời đất, trong có mặt trời mặt trăng, đêm chui vào đấy mà ngủ, gọi là Hồ thiên (trời trong bầu) có lẽ vì thế mà thường gọi bầu trời chăng?
6. Lê Phạm: Lê Quát, người Đông Sơn Thanh Hóa, Phạm Sư Mạnh, người Hiệp Sơn (Kinh Môn Hải Dương ngày nay), đếu là môn sinh của thày Chu Văn An.
Dịch nghĩa
Núi Long Đại
Năm trước ta đã từng xem hang cọp
Nay lại đến xem động Long Đại, một động núi lạ
Con ngao đội núi lên thành động
Cá kình bơi lấp biển thành ao
Trong bầu nhật nguyệt trời khó già
Anh hùng trên đời thì chỉ là một thuở
Nếp sống phong lưu của hai họ Lê và Phạm than ôi cũng xa dần
Thơ trên vách đá cũng đã bị rêu xanh gấm nhậm rồi.
Dịch thơ
Năm trước hang hùm ở tận nơi
Hôm nay Long Đại lại qua chơi
Con ngao đội núi thành hang động
Kình ngạc dời non lấp biển khơi
Nhật nguyệt trong bầu già khó đến
Anh hùng cái thế một thời thôi
Phong lưu Lê Phạm xa mờ cả
Vách núi thơ rêu phủ lấp rồi.
                    Đỗ Đình Tuân dịch

5/5/2012
Đỗ Đình Tuân


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

ĐẾM TIỀN

Ông ngồi giương kính đếm tiền Đồng tiền mỏng thế mà liền với xương Tiền này là khoản tiền lương Là tiền năm tháng chiến trường cho ta ...