Thứ Tư, 16 tháng 5, 2012

Dịch thơ cổ: Nguyễn Trãi 8


Bài 21
望瀛

望瀛投暮繫吟船,
詩景撩人晚興牽。
浴翠雨晴峰似玉,
大安潮漲水如天。
依依遠樹青煙裏,
渺渺平沙白鳥前。
三十年前湖海趣,
茲遊奇絕勝蘇仙。
                  阮廌
Phiên âm
Vọng Doanh (1)
Vọng Doanh đầu mộ hệ ngâm thuyền,
Thi cảnh liêu nhân vãn hứng khiên.
Dục Thuý (2) vũ tình phong tự ngọc,
Đại An (3) triều trướng thủy như thiên.
Y y viễn thụ thanh yên lý,
Diểu diểu bình sa bạch điểu tiền.
Tam thập niên tiền hồ hải thú,
Tư du kỳ tuyệt thắng Tô tiên (4).
                             Nguyễn Trãi
Ghi chú
1.Vọng Doanh: huyện sở tại của thị trấn Ninh Bình, nơi có núi Dục Thúy
2.Dục Thúy: tức núi Non Nước, tỉnh Ninh Bình (Trương hán Siêu đặt tên là núi Dục Thúy)
3.Đại An: một cưa biển thuộc Nam Định
4.Tô Tiên hay Pha Lão: tức Tô Đông Pha (1037-1101), nhà văn, nhà thư họa thời Bắc Tống, làm quan đến chức Binh bộ thượng thư, sau từ quan về bầu rượu túi thơ, có lần bị tội đi đầy 3 năm đến quân Nam Nhĩ thuộc Quảng Đông (Trung Quốc)
Dịch nghĩa
Vọng Doanh
Đầu buổi chiều đến Vọng Doanh buộc thuyền thơ
Cảnh nên thơ trêu ghẹo và lôi kéo cảm hứng con người vào buổi chiều
Mưa tạnh núi Dục Thúy biếc như màu ngọc
Cảnh Đại An nước triều lên hòa với trời
Lờ mờ rặng cây, xa trong làn khói xanh
Bãi sông bát ngát bằng phẳng trước bầy chim trắng
Thú hồ hải ba mươi năm về trước
Tô tiên (Tô Đông Pha) cũng phải chịu thua cuộc chơi tuyệt vời này.
Dịch thơ
Vọng Doanh chiều đến buộc thuyền thơ
Cảnh đẹp làm ta khó hững hờ
Ngọc Thúy sau mưa như ngọc biếc
Đại An sóng vỗ nhập trời xa
Hàng cây mờ tỏ mầu xanh khói
Bãi cát bao la cánh trắng xoà
Ba chục năm rồi vui sóng nước
Tuyệt này hơn cả Lão Pha xưa.
                            Đỗ Đình Tuân dịch

Bài 22
過神符海口

神符海口夜中過,
奈此風流月白何。
夾岸千峰排玉筍,
中流一水走青蛇。
江山如昨英雄逝,
天地無情事變多。
胡越一家今幸睹,
四溟從此息鯨波。
              阮廌
Phiên âm
Quá Thần Phù hải khẩu (1)
Thần Phù hải khẩu dạ trung qua,
Nại thử phong thanh nguyệt bạch hà.
Giáp ngạn thiên phong bài ngọc duẩn,
Trung lưu nhất thủy tẩu thanh xà.
Giang sơn như tạc anh hùng thệ,
Thiên địa vô tình sự biến đa.
Hồ Việt (2) nhất gia kim hạnh đổ,
Tứ minh tòng thử tức kình ba (3).
                              Nguyễn Trãi
Ghi chú
1.Thần Phù một hải khẩu tại huyện Nga Sơn, phủ Hà Trung, tỉnh Thanh Hóa, nay đã bị lấp. Theo sách Đại Nam Nhất Thống Chí, xưa đoàn chiến thuyền của vua Hùng Vương qua đây bị gió chướng, nhờ một đạo sĩ tên là La Viên dùng phép làm biển lặng giúp vượt qua. Khi trở về không thấy ân nhân nữa, vua bèn phong cho Người là Áp Lăng Chân Nhân (vị chân nhân dằn được sóng) và lập đền thờ bên bờ cửa khẩu. Vua Lê Thánh Tông về sau khi qua cửa Thần Phù cũng đã làm thơ lưu niệm.
2.Hồ Việt: tên hai nước thuộc Trung Quốc xưa, Hồ ở phía bắc, Việt ở phía nam, rất xa nhau. Tác giả ngụ ý hòa hợp thì xa cũng hóa gần.
3.Sóng kình: ý nói chiến thuyền địch
Dịch nghĩa
Qua cửa biển Thần Phù
Qua cửa khẩu Thần Phù vào lúc giữa đêm
Gió mát trăng thanh quá, làm sao đây?
Gần bờ nghìn ngọn núi bày ra như búp măng ngọc
Giữa dòng con nước chảy như rắn xanh
Non sông như cũ nhưng anh hùng đã mất
Trời đất vô tình tạo nên bao nhiêu biến đổi
Nay được thấy Hồ, Việt một nhà là điều may mắn
Bốn biển từ nay hết cảnh sóng kình.
Dịch thơ
Thần Phù cửa biển qua thăm
Trăng trong gió mát quá làm sao đây
Núi bày như măng ngàn cây
Giữa dòng con nước chảy dài rắn xanh
Anh hùng giờ đã vắng tanh
Đất trời sao lắm vô tình đổi thay
Một nhà Hồ Việt mừng thay
Sóng kình bốn biển từ nay lặng tờ.
                   Đỗ Đình Tuân dịch

Bài 23
舟中偶成其一

雨後春潮漲海門,
天風吹起浪花噴。
半林殘照篩煙樹,
隔水孤鐘搗月村。
風景可人詩入畫,
湖山滿目酒盈樽。
舊遊歷歷余曾記,
往事重尋只夢魂。
                  阮廌
Phiên âm
Chu trung ngẫu thành kỳ 1
Vũ hậu xuân triều trướng hải môn,
Thiên phong xuy khởi lãng hoa phun bồn.
Bán lâm tàn chiếu si  yên thụ,
Cách thủy cô chung đảo nguyệt thôn.
Phong cảnh khả nhân thi nhập hoạ,
Hồ sơn mãn mục tửu doanh tôn.
Cựu du lịch lịch dư tăng ký,
Vãng sự trùng tầm chỉ mộng hồn.
                                      Nguyễn Trãi
Dịch nghĩa
Ngồi trong thuyền ngẫu nhiên thành thơ kỳ 1
Tan mưa nước triều mùa xuân dâng lên nơi cửa biển
Gió thổi làm sóng dậy phun lên như tràng hoa
Bóng xế giữa rừng lọc (lồng) qua cây và khói (sương)
Bên kia sông tiếng chuông đơn độc vỗ (nện) vào xóm trăng
Phong cảnh khá khiến cho cảm thấy hứng thi và hoạ
Núi và hồ trông thỏa mắt nhìn, khiến chén rượu đầy
Ta còn nhớ rõ từng chuyến đi du ngọan trước
Chuyện xưa ôn lại chỉ qua mộng mị thôi.
Dịch thơ
Tan mưa cửa biển sóng triều tuôn
Gió thổi cho tràng hoa sóng phun
Bóng xế giữa rừng cây lọc khói
Chuông đơn cách bến vỗ trăng thôn
Phong cảnh khiến người thơ nhập họa
Núi hồ thỏa mắt rượu đang còn
Nhớ sao bao chuyến đi năm trước
Tìm lại chuyện xưa giữa mộng hồn.
                      Đỗ Đình Tuân dịch

Bài 24
舟中偶成其二

海角天涯肆意遨,
乾坤到處放吟毫。
漁歌三唱煙湖闊,
牧笛一聲天月高。
清夜憑虛觀宇宙,
秋風乘興駕鯨鰲。
悠然萬事忘情後,
妙理真堪付濁醪。
                 阮廌
Phiên âm
Chu trung ngẫu thành kỳ 2
Hải giác thiên nhai tứ ý ngao,
Kiền khôn đáo xứ phóng ngâm hào.
Ngư ca tam xướng yên hồ khoát,
Mục địch nhất thanh thiên nguyệt cao.
Thanh dạ bằng hư quan vũ trụ,
Thu phong thừa hứng giá kình ngao.
Du nhiên vạn sự vong tình hậu,
Diệu lý chân kham phó trọc lao.
                                 Nguyễn Trãi

Dịch nghĩa
Ngồi trong thuyền ngẫu nhiên thành thơ kỳ 2
Góc biển chân trời mặc ý rong chơi
Trong cõi trời đất đến đâu cũng phóng bút làm thơ
Chài ca mấy khúc, khói hồ rộng mênh mông
Sáo mục đồng trổi lên một tiếng, trăng trời cao
Đêm thanh ngự lên hư không mà ngắm xem vũ trụ
Gió thu thừa hứng cỡi kình ngao
Muôn việc đời dằng dặc sau khi quên hết
Thấy lẽ huyền diệu thật đáng phó cho chén rượu đục
Dịch thơ
Góc biển chân trời thỏa khát khao
Khắp nơi trời đất thú nghêu ngao
Lời ca ngư phủ sương hồ rộng
Tiếng sáo mục đồng vọng nguyệt cao
Đêm ngự hư không nhìn vũ trụ
Gió thu thừa hứng cưỡi kình ngao
Việc đời dằng dặc sau quên cả
Huyền diệu mặc cho chén rượu đào.
                     Đỗ Đình Tuân dịch

Bài 25
題玉清館
紫府樓臺倚碧岑,
十年今夕一登臨。
松花落地金壇靜,
磬響穿雲道院深。
金鼎丹成人已去,
黃梁夢覺事難尋。
猿愁鶴怨無窮意,
寒日蕭蕭竹隔林。
                 阮廌
Phiên âm
Đề Ngọc Thanh quán (1)
Tử phủ (2) lâu đài ỷ bích sầm,
Thập niên kim tịch nhất đăng lâm.
Tùng hoa lạc địa kim đàn (3) tĩnh,
Khánh hưởng (4) xuyên vân đạo viện thâm.
Kim đỉnh (5) đơn thành nhân dĩ khứ,
Hoàng lương mộng giác sự nan tầm.
Viên sầu hạc oán (6) vô cùng ý,
Hàn nhạc tiêu tiêu trúc cách lâm.
                                          Nguyễn Trãi
Ghi chú
1.
Ngọc Thanh quán (quán là nơi cư trú của đạo sĩ): tại núi Đạm Thủy, huyện Đông Triều (Quảng Yên, Bắc Việt) là một danh lam thắng cảnh. Xưa đây là nơi Hồ Quý Ly bắt ép vua Trần Nghệ Tông đến tu sau khi buộc phải nhường ngôi cho Thái tử An mới lê 3 (Trần Thiếu Đế), rồi tổ chức giết luôn vua tại đây (theo Đại Việt Sử Ký Toàn Thư - Ngô Sĩ Liên).
2.Tử phủ: phủ đô sơn mầu tía, là chỗ ở của các vị quyền quý trong triều đình. Theo cổ chế ở Việt Nam cũng như Trung Quốc, mầu vàng dành cho vua, mầu tía dành cho các vị đại thần.
3.Kim đàn: cái nền bệ vàng, nơi tế tự tôn kính
4.Khánh hưởng: Ức Trai thi tập ghi là “bích hưởng” (tiếng ngọc), có lẽ không thích hợp bằng “khánh hưởng”. (?)
5.Kim đỉnh: cái vạc vàng dùng để luyện linh đơn.
6.Viên sầu hạc oán: vượn và hạc là hai loại cầm thú tượng trưng cho người quân tử. Cho nên những hình tượng này thường được khắc họa tại những nơi tôn kính.
Dịch nghĩa
Đề quán Ngọc Thanh
Lâu đài phủ tía dựa trên núi biếc
Mười năm qua, chiều nay mới trở lại thăm
Hoa thông rụng, kim đàn tĩnh mịch
Tiếng khách vang tận mây, đạo viện thẳm sâu
Đĩnh vàng luyện thuốc xong, người tiên đã đi mất
Tỉnh giấc mộng kê vàng, sự việc cũng khó tìm
Vượn sầu hạc oán, ý vô cùng khôn xiết
Ngày lạnh có tiếng lao xao của rừng trúc bên kia.
Dịch thơ
Phủ tía lâu đài dựa núi cao
Mười năm trở lại xế nay vào
Hoa thông rơi rụng kim đàn tĩnh
Tiếng khánh vang mây đạo viện sâu
Thôi luyện đỉnh vàng tiên chẳng thấy
Hoàng lương tỉnh giấc việc khôn cầu
Vượn than hạc oán lòng khôn xiết
Cách trúc lao xao gió thổi sầu.
                           
Đỗ Đình Tuân dịch


17/5/2012
Đỗ Đình Tuân







Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

AI MUA...TÔI KHÔNG...?

                                         Ai mua , tôi bán tôi cho                               Giá mua chỉ một cánh cò chiều đông,   ...