Thứ Tư, 30 tháng 5, 2012

Dịch thơ cổ: Nguyễn Trãi 13


Bài 11
題何校尉白雲思親
Đề Hà hiệu uý "Bạch vân tư thân"

庭闈一別歲花深,
Đình vi (1) nhất biệt tuế hoa thâm,
愛慕人皆共此心。
Ái mộ nhân giai cộng thử tâm. 
客裡看雲情易切,
Khách lí khán vân (2) tình dị thiết, 
公餘披卷意難禁。
Công dư phi quyển ý nan câm.
家山孰不懷桑梓,
Gia sơn thục bất hoài tang tử (3),
忠孝何曾有古今。
Trung hiếu hà tằng hữu cổ câm (kim).
持此贈君還自感,
Trì thử tặng quân hoàn tự cảm,
詩成我亦淚沾襟。
Thi thành ngã diệc lệ triêm khâm.
                                 阮廌
                           Nguyễn Trãi
Ghi chú
1. Sân và nhà trong. Chỉ nhà cha mẹ, cũng dùng để gọi cha mẹ. Bản Đào Duy Anh chép là 庭圍.
2. Danh tướng Địch Nhân Kiệt 狄仁傑 đời Đường (Trung Quốc) đi đánh giặc xa, thấy mây trắng trên núi Thái Hằng mà nhớ đến cha mẹ và nói "nhà cha mẹ ta ở dưới kia kìa".
3. Cây dâu, cây thị, chỉ quê cha đất tổ. Chỗ làng sinh ra mình gọi là "tử lí" 梓里 hay "tang tử" 桑梓. Kinh thi có câu: "Duy tang dữ tử tất cung kính chỉ" (Nghĩ đến cây dâu và cây thị tất phải cung kính). Ý nói hai cây này do cha mẹ trồng lên, người con có hiếu phải kính trọng. Trong bản dịch chúng tôi để tử phần (cây tử, cây phần) tả nơi quê hương, cũng theo ý nghĩa trên. Tại Trung Quốc ngày xưa có tục trồng hai loại cây này ở cổng làng.
Dịch nghĩa
Đề thơ "Trông mây trắng nhớ cha mẹ" của quan hiệu uý họ Hà
Từ khi cách biệt cha mẹ, đã nhiều năm qua
Tình yêu mến, người ta đều cùng một tấm lòng đó
Nơi đất khách trông mây, tình dễ tha thiết
Xong việc công, mở sách, cảm xúc khó cầm
Tình quê hương, ai chẳng nhớ cây dâu cây tử
Lòng trung hiếu có bao giờ phân biệt xưa và nay
Cầm bài này tặng ông, lại tự thấy cảm động
Thơ làm xong, ta cũng nước mắt ướt vạt áo
Dịch thơ
Cách biệt mẹ cha đã bấy năm
Nhớ thương ai chẳng ruột gan đằm
Trông mây đất khách lòng tha thiết
Mở sách nhàn xem dạ khó cầm
Gốc tử miền quê ai chẳng nhớ
Hiếu trung kim cổ ấy tình thâm
Tặng ông bài mới lòng rung động
Thơ viết vừa xong lệ áo đầm.
                   Đỗ Đình Tuân dịch

Bài 12
秋日偶成
Thu nhật ngẫu thành
蕭蕭墜葉響庭皋,
Tiêu tiêu truỵ diệp hưởng đình cao, 
病骨纔蘇氣轉豪。
 Bệnh cốt tài tô khí chuyển hào.
天地斯文從古重,
 Thiên địa tư văn (1) tùng cổ trọng,
湖山清興入秋高。
Hồ sơn thanh hứng nhập thu cao.
鏡中白髮佳人老,
Kính trung bạch phát giai nhân lão,
身外浮名謾爾勞。
Thân ngoại phù danh mạn nhĩ lao. 
緬想故圓三徑菊,
Miến tưởng cố viên tam kính cúc (2)
夢魂夜夜上歸舠。
Mộng hồn dạ dạ thượng quy đao.
                                阮廌
                           Nguyễn Trãi
Ghi chú
1. Nền văn ấy. Văn tức là lễ nhạc, chế độ do đạo Khổng đặt ra cho việc cai trị (văn trị).
2. Tác giả lấy từ bài Quy khứ lai từ của Đào Tiềm (đời Đông Tấn, Trung Quốc) trong đó có câu: "Tam kính tựu hoang, tùng cúc do tồn" (Ba lối cũ tuy bỏ hoang nhưng tùng cúc hãy còn) để nói về sự ẩn dật của các quan xưa.
Dịch nghĩa
Ngẫu hứng ngày thu
Lá rụng tiêu điều nghe tiếng vì vèo ngoài sân
Bệnh nặng vừa khỏi, lấy lại được hào khí
Nền tư văn của trời đất từ xưa vốn được trọng nể
Nguồn cảm hứng với non nước sang mùa thu càng cao
Xem gương thấy tóc đã bạc, cũng già như thiên hạ
Danh hão ở ngoài cái thân con người, chỉ đưa đến sự nhọc mà thôi
Nhớ về vườn cũ xa vời ba luống cúc
Đêm đêm hồn mộng cứ giục lên thuyền để về.
Dịch thơ
Ngoài sân lá rụng tiếng rì rào
Bệnh mới vừa lui sắc lại hào
Nền ấy tư văn trời đất trọng
Nước non thêm hứng tiết thu cao
Soi gương tóc bạc già thêm chút
Danh hão ngoài thân nhọc sức sao
Nhớ mãi vườn xưa ba luống cúc
Thuyền về đêm đến lại chiêm bao.
                    Đỗ Đình Tuân dịch

Bài 13
漫興其一
Mạn hứng (II) kỳ nhất
朴散淳漓聖道湮,
Phác tán thuần ly thánh đạo nhân (1)
吾儒事業杳無聞。
Ngô nho (2) sự nghiệp yểu (3) vô văn. 
逢時不作商岩雨,
Phùng thời bất tác Thương Nham vũ (4)
退老思耕谷口雲。
Thối lão tư canh Cốc Khẩu vân (5)
每嘆百年同過客,
Mỗi thán bách niên đồng quá khách,
何曾一飯忍忘君。
Hà tằng nhất phạn nhẫn vong quân.
人生識字多憂患,
Nhân sinh thức tự đa ưu hoạn,
坡老曾云我亦云。
Pha lão tằng vân ngã diệc vân.
                                阮廌
                           Nguyễn Trãi
Ghi chú
1. Ức Trai thi tập" ghi và phiên là chân, giống như bản Dương Bá Cung ("Nguyễn Trãi toàn tập" trích dẫn), thiết nghĩ không hợp văn cảnh.
2. Đạo nho của ta. Sách Pháp Ngôn giải thích: người thông suốt tất cả thiên văn, địa lý và nhân sự gọi là Nho (Thông thiên, địa, nhân giả viết nho), ngụ ý phải rút kinh nghiệm qua sách vở để hiểu biết về trời, đất và người (tam tài), dựa trên thực tiễn để xử sự.
3. Bản Đào Duy Anh (Nguyễn Trãi thi tập) phiên là diểu, bản Nguyễn Gia Tuân (Ức Trai thi tập) phiên là điểu. Chữ yểu (sâu xa mờ mịt) có thể đọc là miểu hay liễu. Cũng có thể đây là chữ hạnh (tự dạng gần giống chữ yểu) dùng theo nghĩa hạnh lâm (rừng hạnh), vườn hạnh, ý nói về nho học, theo tích Khổng Tử xưa ngồi dạy dưới giàn hạnh.
4. Vua Cao Tông nhà Thương (triều đại trị vì Trung Quốc từ 1783 đến 1135 trước Tây lịch) mộng thấy một người hiền, liền cho vẽ lại chân dung để tìm kiếm. Quả nhiên, tìm được Phó Duyệt ở đất Phó Nham và mang về triều giúp nước. Tin ở tài năng của Phó Duyệt, nhà vua nói nếu gặp đại hại ông sẽ là người làm nên mưa móc, nếu gặp lũ lớn ông sẽ làm cây chầm chèo thuyền cứu vãn. Từ đấy có cụm từ "Thương Nham vũ" (mưa đất Nham nhà Thương)
5. nghĩa đen: (mây ở cửa động) Trịnh Tử Chân đời Hán ở ẩn tại Cốc Khẩu (thuộc tỉnh Thiểm Tây, Trung Quốc ngày nay) có tiếng học đạo giữ mình, từ chối không tham chính.
Dịch nghĩa
Mạn hứng (II) kỳ 1
(Đề chơi lúc hứng)
Những gì gọi là thuần phác đều tan rã, đạo Thánh bị chìm
Sự nghiệp của nhà nho ta lu mờ chẳng có tiếng tăm gì
Gặp thời chẳng tạo được mưa ở Thương Nham
Lúc già trở về cày mây ở Cốc Khẩu
Thường than trăm năm của cõi đời y như khách qua đường
Chưa từng lúc nào ăn một bữa cơm mà không nhớ đến vua
Con người sinh ra biết chữ nghĩa gặp nhiều nạn phải lo lắng
Ông già Tô (Tô Đông Pha) hằng nói thế, ta cũng nói thế.
Dịch thơ
Thuần phác tan ra đạo thánh chìm
Nhà nho sự nghiệp tiếng tăm im
Gặp thời chẳng tạo “Thương Nham vũ”
Già đến cầy mây Cốc Khẩu tìm
Khách trọ trăm năm câu cửa miệng
Vua cha ân nghĩa để trong tim
Con người biết chữ nhiều lo lắng
Pha Lão hàng tin ta cũng tin
                   Đỗ Đình Tuân dịch

Bài 14
漫興其二 
Mạn hứng (II) kỳ nhị
九萬摶風記昔曾,
Cửu vạn đoàn (1) phong ký tích tằng, 
當年錯比北溟鵬。
Đương niên thác tỷ bắc minh bằng.
虛名自嘆成箕斗,
Hư danh tự thán thành cơ đẩu (2),
後學誰將作準繩。
Hậu học thuỳ tương tác chuẩn thằng. 
一片丹心真汞火,
Nhất phiến đan tâm chân hống hoả,
十年清職玉壺冰。
Thập niên thanh chức ngọc hồ băng. 
優游且復言余好,
Ưu du thả phục ngôn dư hiếu,
俯仰隨人謝不能。
Phủ ngưỡng tuỳ nhân tạ bất năng.
                                阮廌
                           Nguyễn Trãi
Ghi chú
1.Chín vạn dặm, do ngữ "bằng đoàn cửu vạn", chim bằng bay cao chín vạn dặm, ý nói rất cao xa
2. Sao Cơ (giống cái nia), sao Đẩu (giống cái đấu). Kinh Thi có câu:
Duy Nam hữu cơ, bất khả dĩ bá dương
Duy Bắc hữu đẩu, bất khả dĩ ấp tửu tương.
(Phương Nam có sao cơ (nia) không thể dùng sàng sảy được
Phương Bắc có sao đẩu (đấu) không thể dùng chứa rượu được).
Ý nói vô dụng.
Dịch nghĩa
Mạn hứng (II) kỳ 2
Nhớ xưa từng có ý muốn cưỡi gió lên chín vạn dặm cao
Bây giờ toan tự sánh mình với chim bằng ở biển bắc
(Tự thẹn) hư danh (vô dụng) chẳng khác nào sao cơ sao đẩu
Kẻ học sau ai lại đem mình ra làm mức làm chuẩn
Một tấm lòng son sắt như lò lửa luyện kim đan
Mười năm phục vụ liêm khiết trong như bầu ngọc
Lại bảo rằng ta ưa thanh nhàn
Còn như cúi mình theo người thì ta không có khả năng.
Dịch thơ
Chín vạn dặm cao cưỡi gió lên
Chim bằng biển bắc tự so tên
Hư danh chẳng khác sao Cơ-Đẩu
Hậu học ai nào dám thước khuôn
Một tấm lòng son lò lửa luyện
Mười năm thanh chức ngọc trong nguyên
Ai rằng ta chỉ ưa nhàn nhã
Khom cúi theo ai vái chả thèm.
                    Đỗ Đình Tuân dịch

Bài 15
漫興其三
Mạn hứng (II) kỳ tam
小院陰陰石徑斜,
Tiểu viện âm âm thạch kính tà, 
翛然宦況似僧家。
Tiêu nhiên (1) hoạn huống tự tăng gia.
官情易怯傷弓鳥,
Quan tình dị khiếp thương cung điểu,
暮影難留赴壑蛇。
Mộ cảnh nan lưu phó hác xà.
夢覺故園三徑菊,
Mộng giác cố viên tam kính cúc,
心清活水一甌茶。
Tâm thanh hoạt thuỷ nhất âu trà.
回頭六十年前事,
Hồi đầu lục thập niên tiền sự,
雙鬢星星兩眼花。
Song mấn tinh tinh lưỡng nhãn hoa.
                                阮廌
                           Nguyễn Trãi
Ghi chú
1.Tiêu nhiên 翛然: Không chút gì bó buộc, tự do tự tại. Trang Tử 莊子 (Ðại Tông Sư 大宗師): "Tiêu nhiên nhi vãng, tiêu nhiên nhi lai dĩ hĩ" 翛然而往,翛然而來而已矣. Nhượng Tống dịch: "Phất phơ mà đi, phất phơ mà lại, thế mà thôi" (Trang Tử Nam Hoa kinh, trang 126). Hai chữ tiêu nhiên 翛然 khác với 蕭然, có nghĩa là "tịch mịch, vắng lặng, tiêu điều". Như Ðào Uyên Minh 陶淵明 có câu: "Hoàn đổ tiêu nhiên, bất tế phong nhật" 環堵蕭然,不蔽風日 (Ngũ Liễu tiên sinh truyện 五柳先生傳). Nguyễn Hiến Lê dịch: "Tường vách tiêu điều, không đủ che mưa nắng" (Cổ văn Trung quốc, trang 181).
Dịch nghĩa
Mạn hứng (II) kỳ 3
Viện nhỏ âm u đường đá chênh chếch
Cảnh làm quan thanh vắng như cảnh nhà sư
Tình hình chốn quan trường dễ làm khiếp sợ như con chim đã bị thương vì cung bắn
Bóng chiều tà khó giữ được tựa con rắn đang vào hang
Tỉnh giấc mộng ba luống cúc nơi vườn cũ
Rửa sạch lòng một ấm trà pha bằng nước suối
Quay đầu nhớ lại sự việc sú mươi năm trước
Hai đám tóc mai đã lốm đốm đôi mắt đã hoa.
                                          (theo NTTT tân biên)
Dịch thơ
Viện nhỏ âm u đường đá chênh
Làm quan tự tại giống sư anh
Riêng lòng sợ tựa chim cung bắn
Chiều cảnh khó lưu rắn rúc ghềnh
Tan mộng vườn xưa ba luống cúc
Rửa lòng nước suối nấu trà thanh
Quay đầu nghĩ lại bao việc trước
Hai mắt đều hoa tóc trắng nhanh.
                   Đỗ Đình Tuân dịch

30/5/2012
Đỗ Đình Tuân








Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

ĐẾM TIỀN

Ông ngồi giương kính đếm tiền Đồng tiền mỏng thế mà liền với xương Tiền này là khoản tiền lương Là tiền năm tháng chiến trường cho ta ...