Thứ Hai, 28 tháng 5, 2012

Dịch thơ cổ: Nguyễn Trãi 12


Bài 6
漫興其一
Mạn hứng (I) kỳ 1

世路蹉跎雪上巔,
Thế lộ sa đà tuyết thượng điên, 
一生落魄更堪憐。
 Nhất sinh lạc thác (1) cánh kham liên.
兒孫種福留心地,
Nhi tôn chủng phúc lưu tâm địa, 
魚鳥忘情樂性天。
Ngư điểu vong tình lạc tính thiên. 
掃雪煮茶軒竹下,
Tảo tuyết chử trà hiên trúc hạ,
焚香對案閣梅邊。
Phần hương đối án các mai biên.
故山昨夜纏清夢,
Cố sơn tạc dạ triền thanh mộng, 
月滿平灘酒滿船。
Nguyệt mãn Bình Than tửu mãn thuyền.
                        阮廌
                      Nguyễn Trãi
Ghi chú
1. 落魄 lạc thác: bơ vơ, người thất nghiệp không nơi nương tựa
Dịch nghĩa
Đề hứng lúc chơi

Đường đời lần lữa mãi chưa làm nên việc gì mà đầu đã bạc trắng như tuyết
Một đời luân lạc càng đáng thương
Để lại đất tâm làm phúc cho con cháu
Vui với tính trời như chim cá chẳng nghĩ ngợi gì
Quét tuyết nấu trà dưới mái hiên phía trước có khóm trúc
Đốt hương ngồi trước án trên gác bên cạnh cây mai
Núi cũ đêm qua vấn vương vào giấc mộng thanh
Trăng chiếu đầy sông bình Than rượu đầy thuyền.
                                             (Theo NTTT tân biên)
Dịch thơ
Đường đời lần lữa tóc sương pha
Lưu lạc suốt đời tự xót xa
Để lại đất tâm truyền cháu chắt
Vui cùng thiên tính tựa chim hoa
Nấu trà quét tuyết hiên bên trúc
Hương đốt xem mai gốc cạnh nhà
Nũi cũ đêm qua vào mộng nhẹ
Bình Than trăng sáng rượu chan hòa.
                        
Đỗ Đình Tuân dịch
Bài 7
漫興其二
Mạn hứng (I) kỳ nhị
烏兔匆匆挽不留,
Ô thố thông thông vãn bất lưu, 
回頭萬事總宜休.
Hồi đầu vạn sự tổng nghi hưu.
空花幻眼眠蕉鹿,
 Không hoa huyễn nhãn miên tiêu lộc (1),
俗境驚心喘月牛。
Tục cảnh kinh tâm suyễn nguyệt ngưu (2)
矮屋棲身堪度老,
Ải ốc thê thân kham độ lão,
蒼生在念獨先憂。
Thương sinh tại niệm độc tiên ưu (3).
彭殤臧穀都休論.
Bành thương (4) tang cốc (5) đô hưu luận,
古往今來貉一丘。
Cổ vãng kim lai lạc nhất khưu.
                                 阮廌
                           Nguyễn Trãi
Ghi chú
1.Tiêu lộc 蕉鹿, con hươu ngủ trong bụi chuối, do điển Tiêu lộc mộng 蕉鹿夢. Sách Liệt Tử chép truyện người kiếm củi nước Trịnh 鄭 đánh chết được một con hươu lạc, bèn đem giấu trong một bụi chuối, về sau không nhớ nổi chỗ giấu thú, đi lẩm bẩm than lời tiếc nuối, cứ ngỡ là mơ. Có kẻ nghe được liền đi kiếm và nhặt được xác hươu, mang về khoe với vợ nhưng vợ không tin, cứ cho rằng chồng mộng mị, dù thấy có hươu thật! Ngụ ý nói trên đời này mộng và thực lẫn lộn.
2. Suyễn nguyệt ngưu 喘月牛: trâu thở phì phào dưới trăng. Ở miền Giang Hoài 江淮 đất Ngô 吳 có loài trâu rất sợ nắng, thấy trăng lên tưởng là mặt trời, sợ thở hổn hển. Sách Phúc khê nguyên bản chép: "Nam địa đa thử, hạo ngưu úy nhiệt, kiến nguyệt ngộ vi nhật nhi suyễn" (Đất Nam nóng nhiều, trâu sợ sức nóng, thấy mặt trăng cũng lầm là mặt trời nên thở phì phào). Ngụ ý nói về sự ám ảnh thường khiến người ta lo sợ hão huyền, như tục ngữ ta có câu "trượt vỏ dưa, thấy vỏ dừa cũng sợ".
3. Tiên ưu 先憂: Phạm Trọng Yêm 范仲淹 (989-1052): "Nhiên tắc hà thời nhi lạc da? Kì tất viết: "Tiên thiên hạ chi ưu nhi ưu, hậu thiên hạ chi lạc nhi lạc"" 然則何時而樂耶?其必曰: 先天下之憂而憂,後天下之樂而樂 (Nhạc Dương Lâu ký 岳陽樓記) Mà lúc nào mới được vui? Tất đáp rằng: "Lo trước cái lo của thiên hạ, vui sau cái vui của thiên hạ".
4. Bành thương 彭殤: Bành là sống lâu, thương là chết non.
5.Tang cốc 臧穀: Theo sách Trang Tử 莊子 (chương Biền mẫu 駢拇), Tang và Cốc cùng chăn dê. Tang ham đọc sách, Cốc mê cờ bạc. Cả hai đều đánh mất dê như nhau. Tô Đông Pha có câu: "Tang Cốc tuy thù, cánh lưỡng vong" (Tang và Cốc tuy có khác nhau, rốt cuộc hai người đều mất).
Dịch nghĩa
Đề hứng lúc chơi
Ngày và đêm qua vùn vụt không ngừng lại
Quay nhìn mọi việc thấy đều nên ngưng là vừa
Hoa mắt tưởng chiêm bao thấy lá chuối giấu con hưu
Nhìn cảnh tục lòng sợ như trâu sợ trăng thở phì phào
Mái nhà nhỏ nương mình có thể qua tuổi già
Vì dân đen luôn luôn để dạ lo trước cho họ
Sống lâu hay chết yểu (như Tang và Cốc) khỏi bàn luận làm gì
Xưa nay xem như loài chồn ở cùng một gò cả.
Dịch thơ
Thời gian vùn vụt thoáng qua trôi
Mọi việc quay đầu đáng nghỉ ngơi
Mắt hoáng lại ngờ mơ dấu hoẵng
Lòng e như nghé sợ trăng ngời
Nương mình nhà nhỏ qua già yếu
Một dạ lo dân trước mọi người
Thọ yểu xin thôi bàn luận mãi
Dù chồn hay cáo một gò thôi.
             
Đỗ Đình Tuân dịch
Bài 8
乞人畫崑山圖
Khất nhân hoạ Côn Sơn đồ
平生邱壑廢登臨,
Bán sinh khâu hác phế đăng lâm,
亂後家鄉費夢尋。
Loạn hậu gia hương phí mộng tầm.
石畔松風孤勝賞,
Thạch bạn tùng phong cô thắng thưởng,
澗邊梅影負清吟。
 Giản biên mai ảnh phụ thanh ngâm.
煙霞冷落腸堪斷,
Yên hà lãnh lạc trường kham đoạn,
猿鶴蕭條意匪禁。
Viên hạc tiêu điều ý phỉ câm.
憑仗人間高畫手,
Bằng trượng nhân gian cao hoạ thủ, 
筆端寫出一般心。
Bút đoan tả xuất nhất ban tâm 。
                                阮廌
                           Nguyễn Trãi
Dịch nghĩa
Nhờ người vẽ tranh Côn Sơn
Nửa đời phải bỏ cái thú đi ngoạn thưởng gò núi hang hốc khe suối
Sau loạn, uổng công tìm quê hương trong giấc chiêm bao
Cạnh ghềnh đá, gió thông không ai thưởng thức
Bên khe nước, bóng mai đành phụ thú ngâm nga
Khói ráng chiều quạnh quẽ, buồn muốn đứt ruột
Vượn hạc tiều điều, cảm xúc khó cầm
Muốn nhờ tay vẽ giỏi trên đời
Lấy bút tả hết nỗi lòng ta.
Dịch thơ
Nửa đời phải bỏ thú sơn khê
Sau loạn hoài công gửi mộng về
Chẳng thưởng gió thông bên ghềnh đá
Không ngâm mai bóng rợp bên khe
Khói chiều quạnh quẽ buồn tê ruột
Vượn hạc tan hoang ý não nề
Muốn mượn trên đời tay vẽ gỏi
Dùng cây bút vẽ nỗi lòng ta.
                     Đỗ Đình Tuân dịch
Bài 9
題程處士雲窩圖
Đề Trình Xử Sĩ vân oa đồ
佳客相逢日抱琴,
Giai khách tương phùng nhật bão cầm,
故山歸去興何深。
Cố sơn quy khứ hứng hà thâm.
香浮瓦鼎風生樹,
Hương phù ngoã đỉnh phong sinh thụ,
月照苔磯竹滿林。
Nguyệt chiếu đài cơ trúc mãn lâm.
洗盡塵襟花外茗,
Tẩy tận trần khâm hoa ngoại mính,
喚回午夢枕邊禽。
Hoán hồi ngọ mộng chẩm biên cầm.
日長隱几忘言處,
Nhật trường ẩn kỷ vong ngôn xứ,
人與白雲誰有心。
Nhân dữ bạch vân (1) thuỳ hữu tâm
                                   阮廌
                           Nguyễn Trãi
Ghi chú
1. Nói về danh tướng Địch Nhân Kiệt đời Đường (Trung Quốc) đi đánh giặc xa, thấy mây trắng trên núi Thái Hằng mà nhớ đến cha mẹ.
Dịch nghĩa
Đề tranh am mây của Trình Xử Sĩ
Khách quý gặp nhau ôm đàn gảy suốt ngày
Trở về núi cũ hứng thú biết bao!
Hương bốc lên ở đỉnh sành, gió rung cây
Trăng chiếu xuống ghềnh rêu, trúc đầy rừng
(Muốn) tẩy sạch lòng trần có (đọt) trà ngoài chỗ hoa viên
Để gọi tỉnh giấc mộng ban trưa, có tiếng chim bên gối
Suốt ngày tựa ghế quên cả nói
(Thử hỏi) giữa người và mây trắng (kia) ai là có tâm tình?
Dịch thơ
Gặp nhau khách quý suốt ngày đàn
Núi cũ về đây hứng thú tràn
Hương bốc đỉnh sành cây lộng gió
Trăng soi rêu đá trúc xanh ngàn
Lòng trần rửa sạch trà ngoài giậu
Mộng tỉnh ban trưa chim hót vang
Tựa ghế suốt ngày quên chẳng nói
Người và mây trắng tình ai mang ?
                    Đỗ Đình Tuân dịch  
Bài 10
題徐仲甫耕隱堂
Đề Từ Trọng Phủ Canh Ẩn đường
去怕繁花沓軟塵,
Khứ phạ phồn hoa đạp nhuyễn trần, 
一犁岩畔可藏身。
Nhất lê nham bạn khả tàng thân. 
商家令佐稱莘野,
Thương gia lệnh tá xưng Sằn Dã (1),
漢世高風仰富春。
Hán thế cao phong ngưỡng Phú Xuân (2)
松菊猶存歸未晚,
Tùng cúc do tồn (3) quy vị vãn,
利名不羨隱方真。
Lợi danh bất tiển ẩn phương chân. 
嗟余久被儒冠誤,
Ta dư cửu bị nho quan ngộ (4),
本是耕閒釣寂人。
Bổn thị canh nhàn điếu tịch nhân.
                                   阮廌
                           Nguyễn Trãi
Ghi chú
1. Chỉ Y Doãn, người hiền sĩ cày ruộng đời nhà Thương (Trung Quốc), vua phải vời ba lần mới chịu giữ chức tể tướng, đủ tài bình trị quốc dân.
2. Một ngọn núi ở tỉnh Chiết Giang (Trung Quốc) nơi Nghiêm Tử Lăng (tức Nghiêm Quang) ở ẩn. Bạn của ông là Lưu Tú, sau khi diệt Vương Mãng lên ngôi xưng là Quang Vũ, nhiều lần cho người đến núi Phú Xuân rước bạn về giúp, nhưng cao sĩ đời Đông Hán này từ chối.
3. Tác giả lấy từ bài Quy khứ lai từ của Đào Tiềm (đời Đông Tấn, Trung Quốc) trong đó có câu: Tam kính tựu hoang, tùng cúc do tồn (Ba lối cũ tuy bỏ hoang nhưng tùng cúc hãy còn, để nói về sự ẩn dật của các quan xưa).
4. Đỗ Phủ nói: Nho quan đa ngộ thân (Ăn mặc theo lối nhà nho nhiều khi bị lâm lụy). Ý nói theo đạo Nho không hợp thời bấy giờ. Lý Gia Hựu đời Đường cũng có câu: Thanh bào kim dĩ ngộ nho sanh. (Mặc áo xanh làm kẻ nhà nho, nay thấy mình đã lầm).
Dịch nghĩa
Đề nhà Canh Ẩn của Từ Trọng Phủ
(Ông) từ bỏ chốn xa hoa đầy bụi bặm
Đến đây tự giấu mình để cày bên núi đá
Sằn Dã (Y Doãn) từng lưu tiếng phục vụ tốt cho nhà Thương
Noi gương đỉnh Phú Xuân (tức Nghiêm Tử Lăng) về vụ vua Hán mời ra phục vụ (mà không nhận)
Lúc trở về tùng cúc đang còn đấy
Lợi danh chẳng tiện gì, ở ẩn là phương sách chân thực
Tự than mình đã lâu bị ngộ nhận vì vẻ nho quan
Vốn chỉ thích cày ruộng, câu cá, sống đời ẩn dật.
Dịch thơ
Bỏ nơi bụi bặm phồn hoa
Về cày bên đá để mà dấu thân
Giúp Thương Y Doãn lừng tên
Tử Lăng vua Hán vời lên lại từ
Khi về tùng cúc còn chờ
Lợi danh không hám ẩn là thậm hay
Than mình ngộ nhận lâu nay
Thật ra vốn thích câu cày thảnh thơi.
                     
Đỗ Đình Tuân dịch

28/5/2012
Đỗ Đình Tuân

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

ĐẾM TIỀN

Ông ngồi giương kính đếm tiền Đồng tiền mỏng thế mà liền với xương Tiền này là khoản tiền lương Là tiền năm tháng chiến trường cho ta ...