THƠ
LÀM SAU KHI THÀNH CÔNG VÀ LÀM QUAN Ở TRIỀU (31 BÀI)
Bài
11
題伯牙鼓琴圖
鐘期不作鑄金難,
獨抱瑤琴對月彈。
靜夜碧宵涼似水,
一聲鶴唳九皋寒。
獨抱瑤琴對月彈。
靜夜碧宵涼似水,
一聲鶴唳九皋寒。
Phiên âm
Đề Bá Nha cổ cầm đồ
Chung
Kỳ bất tác chú kim nan,
Độc bão dao cầm đối nguyệt đàn.
Tĩnh dạ bích tiêu lương tự thuỷ,
Nhất thanh hạc lệ cửu cao hàn.
Độc bão dao cầm đối nguyệt đàn.
Tĩnh dạ bích tiêu lương tự thuỷ,
Nhất thanh hạc lệ cửu cao hàn.
Nguyễn Trãi
Dịch
nghĩa
Đề bức hoạ Bá Nha đánh đàn
Vàng của Chung Kỳ cũng khó đúc nên được
(Bá Nha) một mình ôm đàn ngọc dưới trăng mà gẩy
Bầu trời đêm như ngọc yên tĩnh và mát như nước
Một tiếng hạc kêu lạnh cả chín chằm.
Dịch thơ
Chung Kỳ
vàng khó đúc nên
Bá Nha ngồi
dưới trăng đêm gảy đàn
Đêm thanh
như nước ngọc toàn
Hạc kêu một
tiếng chín chằm lạnh thêm.
Đỗ Đình
Tuân dịch
Bài
12
次韻陳尚書題阮布政草堂
一心報國尚桓桓,
小構茆亭且自寬。
薇省退歸花影轉,
金門夢覺漏聲殘。
琴書雅趣真堪尚,
松菊歡盟亦未寒。
後樂想知終有意,
好將事業百年看。
小構茆亭且自寬。
薇省退歸花影轉,
金門夢覺漏聲殘。
琴書雅趣真堪尚,
松菊歡盟亦未寒。
後樂想知終有意,
好將事業百年看。
阮廌
Phiên âm
Thứ vận Trần thượng thư đề Nguyễn bố chánh thảo đường
Nhất
tâm báo quốc thượng hoàn hoàn,
Tiểu cấu (1) mao đình thả tự khoan.
Vi tỉnh (2) thối quy hoa ảnh chuyển,
Kim môn (3) mộng giác lậu thanh tàn.
Cầm thư nhã thú chân kham thượng,
Tùng cúc hoan minh diệc vị hàn.
Hậu lạc (4) tưởng tri chung hữu ý,
Hảo tương sự nghiệp bách niên khan.
Tiểu cấu (1) mao đình thả tự khoan.
Vi tỉnh (2) thối quy hoa ảnh chuyển,
Kim môn (3) mộng giác lậu thanh tàn.
Cầm thư nhã thú chân kham thượng,
Tùng cúc hoan minh diệc vị hàn.
Hậu lạc (4) tưởng tri chung hữu ý,
Hảo tương sự nghiệp bách niên khan.
Nguyễn
Trãi
Ghi
chú
1.Bản
Nguyễn Gia Tuân phiên là cách
2.Vi
tỉnh (hay Vi sảnh): Vi (hoa tử vi) Tỉnh (rút từ chữ Trung Thư tỉnh, tức nội các
của vua). Tại Trung Thư tỉnh thường trông nhiều hoa tử vi nên vào đời vua Huyền
Tông nhà Đường đổi tên là Tử Vi tỉnh. Bạch Cư Dị trong một lần trực ở Trung Thư
tỉnh làm bài thơ trong đó có câu: “ Độc tọa hoàng hôn thùy thị bạn / Tử vi hoa
đối tử vi lang” (Hoàng hôn một bong cùng ai bạn / Chàng tử vvi đối hoa tử vi).
3.Kim
môn: do chữ “Kim mã môn” rút gọn. Vào đời nhà Hán trước cửa cung Vị Ương có một
con ngự đồng nên gọi là kim mã môn. Các quan chầu chực tại đây để vào triều.
4.Hậu
lạc: do chữ “tiên ưu hậu lạc” (lo trước vui sau). Bài Nhạc Dương Lâu ký của Phạm
Trọng Yêm có câu: “Tất kỳ tiên thiên hạ chi ưu nhi ưu / Hậu thiên hạ chi lạc
nhi lạc” (Phải lo trước cái lo của thiên hạ / Vui sau cái vui của thiên hạ).
Dịch nghĩa
Hoạ vần Trần thượng thư đề thảo đường của Nguyễn bố chánh
Một
lòng báo quốc vẫn còn đeo đẳng hăng hái
Dựng mái tranh để tự giải khuây
Từ chỗ vi tỉnh về thì bóng hoa đã chuyển
Tỉnh mộng kim môn ra thì đồng hồ lâu cũng đã cạn
Cái thú cầm thư trang nhã thật đáng chuộng
Lời hẹn vui với hoa lá cũng chưa nguôi
Vui sau (lo trước) tưởng cuối cùng cũng có ý
Đáng mang sự nghiệp trọn đời ra nêu gương về sau.
Dựng mái tranh để tự giải khuây
Từ chỗ vi tỉnh về thì bóng hoa đã chuyển
Tỉnh mộng kim môn ra thì đồng hồ lâu cũng đã cạn
Cái thú cầm thư trang nhã thật đáng chuộng
Lời hẹn vui với hoa lá cũng chưa nguôi
Vui sau (lo trước) tưởng cuối cùng cũng có ý
Đáng mang sự nghiệp trọn đời ra nêu gương về sau.
Dịch thơ
Một lòng
báo quốc vẫn nồng sôi
Mái lá con con tạm nghỉ ngơi
Từ sảnh trở về hoa bóng chuyển
Cửa quan tỉnh giấc đồng hồ vơi
Thú vui đàn sách thật nên chuộng
Món nợ cúc tùng vẫn chửa nguôi
Lo trước vui sau hằng giữ chí
Cần đem sự nghiệp để đời soi.
Đỗ Đình Tuân dịch
Bài
13
秋夜與黃江阮若水同賦
紅葉堆庭竹擁門,
滿階明月過黃昏。
九霄清露三更濕,
四壁寒蛩徹夜喧。
天籟語秋驚草木,
玉繩低漢轉乾坤。
高齋獨坐渾無寐,
好把新詩向志論。
滿階明月過黃昏。
九霄清露三更濕,
四壁寒蛩徹夜喧。
天籟語秋驚草木,
玉繩低漢轉乾坤。
高齋獨坐渾無寐,
好把新詩向志論。
阮廌
Phiên
âm
Thu dạ dữ Hoàng Giang Nguyễn Nhược Thuỷ đồng phú
Hồng diệp đôi đình trúc ủng môn,
Mãn giai minh nguyệt quá hoàng hôn.
Cửu tiêu thanh lộ tam canh thấp,
Tứ bích hàn cung (1) triệt dạ huyên.
Thiên lại (2) ngữ thu kinh thảo mộc,
Ngọc Thằng )(3) đê Hán (4) chuyển càn khôn.
Cao trai độc toạ hồn vô mị,
Hảo bả tân thi hướng chí luâ (5).
Hồng diệp đôi đình trúc ủng môn,
Mãn giai minh nguyệt quá hoàng hôn.
Cửu tiêu thanh lộ tam canh thấp,
Tứ bích hàn cung (1) triệt dạ huyên.
Thiên lại (2) ngữ thu kinh thảo mộc,
Ngọc Thằng )(3) đê Hán (4) chuyển càn khôn.
Cao trai độc toạ hồn vô mị,
Hảo bả tân thi hướng chí luâ (5).
Nguyễn
Trãi
Ghi chú
1.Cung:
Nguyễn Trãi toàn tập chép là “cung” (con dê); Ức Trai di tập chép là “tương”
(con ve).
2.Thiên
lại: Tiếng vi vu giữa trời nghe như tiếng sáo. Phàm những chỗ hư không phát ra
tiếng đều gọi là lại: “Thiên lại” (tiếng trời); “Địa lại” (tiếng đất)…Ức Trai
di tập chép là “Tiên lại” (Tiếng sáo tiên).
3.
Ngọc Thằng: Tên một vì sao gần sao Bắc Đẩu. Lúc đêm khuya sao này xuống thấp gần
Ngân Hà.
4.Hán:
còn gọi là Thiên Hà, tức Ngân Hà.
5.Luân:
gốc là luận. Trong thơ có thể đọc là luân hay lôn.
Dịch
nghĩa
Đêm thu cùng Hoàng Giang Nguyễn Nhược Thuỷ làm thơ
Lá
đỏ chất đầy sân, trúc ôm cửa
Đầy thềm trăng sáng, đã quá hoàng hôn
Từ chín từng mây, những hạt móc trong thấm ướt ba canh
Bốn vách dế lạnh kêu suốt đêm
Tiếng trời nói thu đến làm kinh động cây cỏ
Sao Ngọc thằng xuống thấp gần sông Ngân hà, chuyển trời đất
Ngồi một mình trên phòng cao, không ngủ được
Hãy đem bài thơ mới nói đến chí mình.
Đầy thềm trăng sáng, đã quá hoàng hôn
Từ chín từng mây, những hạt móc trong thấm ướt ba canh
Bốn vách dế lạnh kêu suốt đêm
Tiếng trời nói thu đến làm kinh động cây cỏ
Sao Ngọc thằng xuống thấp gần sông Ngân hà, chuyển trời đất
Ngồi một mình trên phòng cao, không ngủ được
Hãy đem bài thơ mới nói đến chí mình.
Dịch thơ
Lá đỏ đầy
sân trúc cửa ôm
Đầy thềm
trăng sáng quá chiều hôm
Chín tầng hạt
móc ba canh ướt
Bốn vách
trùng kêu lạnh suốt đêm
Thu đến tiếng
trời kinh cỏ lá
Ngọc Thằng
hạ thấp chuyển càn khôn
Phòng cao một
bóng không sao ngủ
Hãy viết
bài thơ nói chí luôn.
Đỗ Đình Tuân dịch
Bài
14
端午日
天中共喜值佳辰,
酒泛菖蒲節物新。
進帖當年思永叔,
沉湘底事嘆靈均。
闢邪不用絲纏臂,
隨俗聊為艾結人。
願把蘭湯分四海,
從今澡雪舊污民。
酒泛菖蒲節物新。
進帖當年思永叔,
沉湘底事嘆靈均。
闢邪不用絲纏臂,
隨俗聊為艾結人。
願把蘭湯分四海,
從今澡雪舊污民。
阮廌
Phiên âm
Đoan Ngọ nhật (1)
Thiên
trung cộng hỉ trị giai thần,
Tửu phiếm xương bồ tiết vật tân.
Tấn thiếp đương niên tư Vĩnh Thúc (2),
Trầm Tương để sự thán Linh Quân.
Tịch tà bất dụng ti triền tý,
Tùy tục liêu vi ngải kết nhân.
Nguyện bả lan thang phân tứ hải,
Tòng kim tháo tuyết cựu ô dân.
Tửu phiếm xương bồ tiết vật tân.
Tấn thiếp đương niên tư Vĩnh Thúc (2),
Trầm Tương để sự thán Linh Quân.
Tịch tà bất dụng ti triền tý,
Tùy tục liêu vi ngải kết nhân.
Nguyện bả lan thang phân tứ hải,
Tòng kim tháo tuyết cựu ô dân.
Nguyễn Trãi
Ghi chú
1.Đoan
ngọ(còn gọi là Đoan Dương, Đoan Ngũ, Trùng Ngũ hay Trùng Ngọ): ngày mùng 5 tháng 5 Âm lịch, năm 290 trước Tây
lịch, Khuất Nguyên, tự là Linh Quân, làm đến chức Tả đồ đời Sở Hoài Vương
(Trung Quốc), vì hai lần bị gièm pha do ghen tài nên tự vẫn ở sông Mịch La (tức
sông Tương). Về sau dân nước Sở cứ đến ngày ấy tổ chức đua thuyền, ngụ ý để vớt
thi hài Khuất Nguyên.
2.Vĩnh
Thúc: tên tự của Âu Dương Tu, đời Tống Nhân Tôn (Trung Quốc), tùng dâng sớ can
vua về việc bãi chức nhiều quan đại thần trung nghĩa.
Dịch
nghĩa
Ngày Đoan Ngọ
Giữa
trưa cùng vui gặp ngày đẹp trời
Rượu xương bồ là món mới ngày tết
Nhớ năm ấy Vĩnh Thức đệ sớ
Việc trầm mình dưới sông Tương đáng than cho Linh Quân
Không dùng tơ ràng ở cánh tay để trừ tà
Theo phong tục tạm kết cây ngải bện thành hình nhân
Nguyện mang nước thang lan chia khắp bốn bổ
Từ nay rửa sạch cái dơ bẩn cũ cho dân.
Rượu xương bồ là món mới ngày tết
Nhớ năm ấy Vĩnh Thức đệ sớ
Việc trầm mình dưới sông Tương đáng than cho Linh Quân
Không dùng tơ ràng ở cánh tay để trừ tà
Theo phong tục tạm kết cây ngải bện thành hình nhân
Nguyện mang nước thang lan chia khắp bốn bổ
Từ nay rửa sạch cái dơ bẩn cũ cho dân.
Dịch thơ
Cùng vui trời đẹp
giữa trưa ngày
Rượu mới
xương bồ hợp tiết đây
Vĩnh Thúc
năm xưa từng đệ sớ
Linh Quân
tuẫn tiết đáng than vầy
Trừ tà tơ sợi
tay không buộc
Chỉ kết
hình người rau ngải thay
Muốn lấy nước
thơm chia bốn biển
Rửa đi dơ
cũ của dân này.
Đỗ Đình Tuân dịch
Bài
15
偶成
喜得身閒官又冷,
閉門盡日少相過。
滿堂雲氣朝焚柏,
遶枕松聲夜瀹茶。
修己但知為善樂,
致身未必讀書多。
平生迂闊真吾病,
無術能醫老更加。
閉門盡日少相過。
滿堂雲氣朝焚柏,
遶枕松聲夜瀹茶。
修己但知為善樂,
致身未必讀書多。
平生迂闊真吾病,
無術能醫老更加。
阮廌
Phiên âm
Ngẫu thành (I)
Hỉ
đắc thân nhàn quan hựu lãnh,
Bế môn tận nhật thiểu tương qua.
Mãn đường vân khí triêu phần bách,
Nhiễu chẩm tùng thanh dạ thược trà.
Tu kỉ đãn tri vi thiện lạc,
Trí thân vị tất độc thư đa.
Bình sinh vu khoát chân ngô bệnh,
Vô thuật năng y lão cánh gia.
Bế môn tận nhật thiểu tương qua.
Mãn đường vân khí triêu phần bách,
Nhiễu chẩm tùng thanh dạ thược trà.
Tu kỉ đãn tri vi thiện lạc,
Trí thân vị tất độc thư đa.
Bình sinh vu khoát chân ngô bệnh,
Vô thuật năng y lão cánh gia.
Nguyễn Trãi
Dịch
nghĩa
Ngẫu nhiên làm (I)
Mừng
được nhàn thân, chức quan rảnh rỗi
Trọn ngày đóng cửa, ít qua lại với ai
Hơi bốc đầy nhà vì xông gỗ bách buổi sáng
Tiếng reo của cây tùng làm rộn gối ngủ, đêm pha trà uống
Sửa mình chỉ biết làm điều thiện là vui
Lập thân chưa hẳn cần đọc nhiều sách
Bình sinh vu khoát quả là bệnh của ta
Vô phương chữa được mà lại thêm nặng theo tuổi già.
Trọn ngày đóng cửa, ít qua lại với ai
Hơi bốc đầy nhà vì xông gỗ bách buổi sáng
Tiếng reo của cây tùng làm rộn gối ngủ, đêm pha trà uống
Sửa mình chỉ biết làm điều thiện là vui
Lập thân chưa hẳn cần đọc nhiều sách
Bình sinh vu khoát quả là bệnh của ta
Vô phương chữa được mà lại thêm nặng theo tuổi già.
Dịch thơ
Mừng được
thân nhàn quan lại rỗi
Suốt ngày
đóng cửa ít qua xem
Đầy nhà hơi
bách xông ban sáng
Rộn gối tiếng
tùng trà uống đêm
Chỉ biết sửa
mình làm việc thiện
Lập thân
đâu phải đọc nhiều thiên
Viển vông
quả bệnh ta hằng mắc
Khôn chữa
càng già càng nặng thêm.
Đỗ Đình Tuân dịch
13/5/2012
Đỗ Đình
Tuân
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét