31. Mạn thuật 9
Am quạnh thiêu hương đọc ngũ
kinh 1
Linh đài sạch một dường thanh
Nhà còn thi lễ âu chi ngặt
Đời bượp 2 văn chương uổng mỗ danh
Đầu tiếc đội mòn khăn Đỗ Phủ
Tay còn lựa hái cúc Uyên Minh 3
Chi là của tiêu ngày tháng
Thơ một hai thiên rượu một
bình.
1.Ngũ kinh: Kinh dịch, Kinh thi, kinh thư, Kinh lễ, kinh
xuân thu.
2.Bượp: âm Hán là phạp nghĩa là không có, thiếu. âm nôm là
bượp.
3. Uyên Minh: tên tự của Đào Tiềm nhà thơ đời Tấn
32. Mạn thuật 10
Tưởng thân hư ảo nổi bằng bèo
Chí cũ công danh vưỡn rã keo 1
Viện có hoa tàn chăng quét
đất
Nước còn nguyệt hiện xá thôi
chèo
Lòng người tựa mặt ai ai khác
2
Sự thế bằng cờ bước bước
nghèo
Không hết kể chi tay trí
thuật
Để đòi khi ngã thắt khi eo. 3
1.Vưỡn rã keo: TVG phiên là “uốn lưỡi dao” và chú là do chữ “đao bút” mà ra. ĐDA phiên
là “Vẫn lỡ keo” Toàn tập tân biên phiên là “Vưỡn rã keo” và chú là “Không còn
gắn bó nữa”.
2. Ai ai khác: trong Tả truyện, Tử Sằn có câu: “NHân tâm chi
bất đồng như kỳ diện yên” (Lòng người khác nhau cũng như mặt người khác nhau
vậy).
3. Hai câu kết nghĩa là: Trong đời kể không hết những tay
dùng trí thuật để theo đuổi(đòi) khi người ta ngã và thắt buộc thêm khi người
ta gặp khúc eo (lúc khó khăn)
33. Mạn thuật 11
Náu về quê cũ bấy nhiêu xuân
Lửng thửng chưa lìa lưới trần
Ở thế những hiềm qua mỗ thế
Có thân thì xá cốc 1
chưng thân
Vườn còn thông trúc đáng năm
mẫu
Câu ước công danh đổi một cần
Miệt 2 bả hài 3
gai khăn cóc
Xênh xang 4 làm mỗ
đứa 5 thôn dân.
1. xá cốc: hãy biết đến, nên biết đến
2. miệt: bít tất
3. Hài: giầy
4. Xênh xang: ĐDA phiên là xềnh xoàng có lẽ đúng hơn
5. Làm mỗ đứa: ĐDA phiên là “làm mấy đứa.
34. Mạn thuật 12
Trường văn làm ngả 1
mấy thu dư
Uổng tốn công nhàn biện lỗ
ngư
Còn miệng tựa bình 2
đà chỉn giữ
Có lòng bằng trúc 3
mỗ nên hư
Én từ nẻo lạc nhà Vương Tạ 4
Quạt đã hầu thu lòng Tiệp dư 5
Chỉn xá lui 6 mà
thủ phận
Lại tu thân khác mực 7
thi thư.
1.Trường văn nằm ngả: cảnh học trò học ngày xưa nằm bò ra để
viết.
2.Miệng tựa bình: lấy ý từ câu “Thủ khẩu như bình” (giữ
miệng như bình) ý nói cẩn thận trong nói năng
3.Lòng bằng trúc: lấy ý từ câu “Tiết trực tâm hư” lòng ngay
thẳng vô tư
4. Vương Tạ: hai nhà đại quý tộc đời Tấn. Thơ Lưu Vũ Tích
đời Đường có câu: “Tích thì Vương Tạ đường tiền yến / Phi nhập tầm thường bách
tính gia” (Chim yền trước kia đậu trước nhà Vương Tạ / Nay nay bay vào chốn nhà
dân dã tầm thường).
5. Tiệp dư: một cấp bậc của cung phi
6. Chỉn: chỉ, chỉ còn, hãy còn, vẫn…Chỉn xá lui: hãy nên lui.
7. Mực: Trần Văn Giáp phiên là “mức” ĐDA phiên là “mặc”…
35. Mạn thuật 13
Quê cũ nhà ta thiếu của nào
Rau trong nội cá trong ao
Cách song mai tỉnh hồn cô
dịch 1
Kề nước cầm đưa tiếng củu cao
2
Khách đến vườn còn hoa lác 3
Thơ nên cửa thấy nguyệt vào
Cảnh thanh dường ấy chăng về
nghỉ
Lẩn thẩn làm chi áng mận đào.
1.Cô dịch: tên núi ở tỉnh Sơn Tây Trung Quốc. Theo Trang Tử
(Tiêu dao du) trên núi Cô dịch có thần nhân ở, da thịt như băng tuyết, yểu điệu
như người con gái chưa chồng, không ăn ngũ cốc chỉ hớp gió uống sương. Ở đây
chỉ cốt cách thanh khiết của hoa mai
2.Cửu cao: chín cái đầm. Thiên Hạc minh (Tiểu nhã, kinh thi)
có câu “Hạc minh vu cửu cao, thanh văn vu dã” (chim hạc kêu ở ngoài xa nơi chín
đầm mà tiếng còn nghe được ở đồng nội. Đây tả tiếng suối chảy nghe như tiếng
đàn tiếng hạc.
3.Hoa lác: hoa lác đác
36. Mạn thuật 14
Án tuyết 1 mười
thu uổng độc thư
Kẻo còn lọt lọt 2 chữ
Tương Như 3
Nước non kể khắp quê hà hữu 4
Sự nghiệp nhàn khoe phú Tử Hư
5
Con mắt họa 6 xanh
đầu dễ bạc
Lưng khôn uốn lộc nên từ
Ai ai đều đã bằng câu 7
hết
Nước chẳng còn có Sử Ngư.
1.án tuyết: chữ mượn thơ Viên Khải “Minh quy tuyết án đồng
ôn tập”(Khi đêm về chỗ án sách có ánh tuyết cùng ôn tập). Tôn Khang đời Tấn nhà
nghèo không có dầu thắp đèn đêm mùa đông phải nhờ ánh sáng của tuyết để đọc
sách, sau thi đỗ làm đến quan ngữ sử đại phu. Án tuyết ở đây chỉ án sách.
2. Lọt lọt: rõ mồn một
3. Tương Như: tức Tư Mã Tương Như đời Hán, rất nổi tiếng về
phú như Tử hư phú, Thượng lâm phú, Trường Môn phú. Ông không những văn hay còn
đàn giỏi. Nàng Trác Văn Quân đang đêm bỏ nhà đi theo ông vì mê tiếng đàn của
ông.
4. Quê hà hữu: xuất phát từ câu “vô hà hữu chi hương” chỉ
nơi hư không tịch mịch, giữa cánh đồng bao la
5. Phú Tử hư: tên một bài phú của Tư mã Tương Như
6. Họa: ít khi
7. Bằng câu: lưng cong như lưỡi câu cá
8. Sử Ngư: đại quan nước Vệ thời Xuân Thu, nổi tiếng là
người ngay thẳng
30/08/2015
Đỗ Đình Tuân
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét