Thứ Ba, 25 tháng 8, 2015

Đọc Quốc âm thi tập (3)

Bảng chép chữ nôm các bài thơ:




13. Ngôn chí 12

Thân nhàn dầu tới dầu lui
Thua được bằng cờ ai kẻ đôi
Bạn cũ thiếu: ôm đèn lẫn sách
Tính quen chăng: kiếm trúc cùng mai
Cày chống tuyết ngâm đòi cảnh
Cuốc chơi xuân khắp mọi đồi
Con cháu mựa hiềm song viết tiện
Nghìn đầu cam quýt ấy là tôi.


14. Ngôn chí 13

Tà dương bóng ngả thuở giang lâu
Thế giới đông nên ngọc một bầu
Tuyết sóc 1 treo cây điểm phấn
Quỹ đông 2 dãi nguyệt in câu
Khói chìm thủy quốc quyến phẳng
Nhạn triện hư không gió thâu
Thuyền mọn còn chèo chẳng khứng đỗ
Trời ban tối ước về đâu.

1. Sóc: phương bắc
2. Quỹ đông: Đào Duy Anh (ĐDA) phiên là “cõi đông”

15. Ngôn chí 15

Vừa sáu mươi dư tám chín thu 1
Lưng gầy da xỉ tường lù khù
Lâm tuyền thanh vắng bạn Sào Hứa 2
Lễ nhạc nhàn chơi đạo Khồng Chu 3
Bát cơm xoa 4 nhờ ơn xã tắc 5
Căn lều nhỏ đội đức Đường Ngu 6
Tơ hào chẳng co đền ơn chúa
Dạy làng giềng mấy sĩ nho.

1. ĐDA giải nghĩa là: nếu làm tròn là 60 tuổi thì dư ra tám, chín thu, tức khoảng 51, 52 tuổi.
2. Sào Hứa (Sào Phủ và Hứa Do) hai nhân vật tượng trưng cho sự cao khiết, từ chối công danh quyền lực, thời Đường Nghiêu thời cổ đại bên Trung Quốc
3. Khổng Chu tức Khổng Tử và Chu Hy
4. Cơm xoa: cơm xoàng
5. Xã tắc: xã (cái nền tròn, tượng trưng cho trời), tắc (cái nền vuông, tượng trung cho đất) dùng làm nơi để cúng trời đất. Xã tắc tượng trưng cho quốc gia thời phong kiến.
6.Đường Ngu: Đường tức là Đường Nghiêu (Đào Đường) và Nghiêu Thuấn (Hữu Ngu) hai đời thái bình thịnh trị trong truyền thuyết Trung Hoa cổ đại

16. Ngôn chí 15

Am 1 cao am thấp đợt đòi tầng
Khấp khểnh ba làn trở lại bằng
Quét trúc bước qua lòng suối
Thưởng mai về đạp bóng trăng
Phần du 2 lẽo đẽo thương quê cũ
Tùng cúc 3 bù trì nhớ việc hằng
Một phút thanh nhàn trong thuở ấy
Thiên kim ước đổi được hay chăng.

1. Am: lều nhỏ lợp tranh, nhà ở nơi hẻo lánh, tịch mịch của người ở ẩn thời xưa.
2. Phần Du: tên làng quê của Hán Cao Tổ.Phần và du cũng là tên hai thứ cây. Phần du trong thơ văn tương trưng cho quê cũ.
3. Tùng cúc: Quy khư lai từ của Đào Tiềm coa câu; “Tam kính tựu hoang, tùng cúc do tồn” (Ba luống đất đã bị bỏ hoang nhưng tùng cúc vẫn còn). Tùng cúc chỉ việc bỏ quan về ở ẩn


17. Ngôn chí 16

Tham nhàn lánh đến giang san
Ngày vắng xem chơi sách một an
Am rợp chim kêu hoa xẩy động
Song im hương tạn khói sơ tàn
Mưa thu rưới 1 ba đương cúc
Gió xuân đưa một luống 2 lan
Ẩn cả 3 lọ chi thành thị nữa
Nào đâu là chẳng đất nhà quan.

1. Rưới: tưới
2. Luống: ĐDA phiên là “lảnh”
3 Ẩn cả : dịch chữ « đại ẩn ». Gốc ở câu : « Tiểu ẩn ẩn lăng tẩu, đại ẩn ẩn thị triều »(người tiểu ẩn đi ẩn nơi rừng rú, người đại ẩn ẩn ngay chốn thị triều).

18. Ngôn chí 17

Đột xung biếng tới áng can qua
Địch 1 lều ta dưỡng tính ta
Song viết hằng lề phiến sách cũ
Hôm dao 2 đủ bữa bát cơm xoa
Đêm thanh nguyệt hiện ngoài hiên trúc
Ngày vắng chim kêu cuối khóm hoa
Quân tử hãy lăm 3 bền chí cũ
Chẳng âu ngặt chẳng âu già.

1. Địch : Còn có bản phiên là « thú », là « thích »
2. Hôm dao : hôm mai
3. Lăm : lăm lăm (chuyên chú)

26/08/2015
Đỗ Đình Tuân

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

ĐẾM TIỀN

Ông ngồi giương kính đếm tiền Đồng tiền mỏng thế mà liền với xương Tiền này là khoản tiền lương Là tiền năm tháng chiến trường cho ta ...