Thứ Ba, 5 tháng 8, 2014

Dịch Bắc hành tạp lục: Bài 127






Bài 127

Đài đá nơi Lương Chiêu Minh thái tử chia kinh

梁昭明太子分經石臺
Lương Chiêu Minh thái tử phân kinh thạch đài
梁朝昭明太子分經處
Lương Chiêu Minh thái tử phân kinh xứ
石臺猶記分經字
Thạch đài do ký phân kinh tự
臺基蕪沒雨花中
Đài cơ vu một vũ hoa trung
百草驚寒盡枯死
Bách thảo kinh hàn tận khô tử
不見遺經在何所
Bất kiến di kinh tại hà sở
往事空傳梁太子
Vãng sự không truyền Lương thái tử
太子年少溺菸文
Thái tử niên thiếu nịch ư văn
強作解事徒紛紛
Cường tác giải sự đồ phân phân
佛本是空不著物
Phật bản thị không bất trứ vật
何有乎經安用分
Hà hữu hồ kinh an dụng phân
靈文不在言語科
Linh văn bất tại ngôn ngữ khoa
孰為金剛為法華
Thục vi kim cang vi pháp hoa
色空境界茫不悟
Sắc không cảnh giới mang bất ngộ
癡心歸佛佛生魔
Si tâm quy phật phật sinh ma
一門父子多膠蔽
Nhất môn phụ tử đa giao tế
一念之中魔自至
Nhất niệm chi trung ma tự chí
山陵不涌蓮花臺
Sơn lăng bất thống liên hoa đài
白馬朝渡長江水
Bạch mã triêu độ trường giang thủy
楚林禍木池殃魚
Sở lâm họa mộc trì ương ngư
經卷燒灰臺亦圯
Kinh quyển thiêu hôi đài diệc di
空留無益萬千言
Không lưu vô ích vạn thiên ngôn
後世愚僧徒聒耳
Hậu thế ngu tăng đồ quát nhĩ
吾聞世尊在靈山
Ngô văn thế tôn lại linh sơn
說法渡人如恆河沙數
Thuyết pháp độ nhân như hằng hà sa số
人了此心人自渡
Nhân liễu thử tâm nhân tự độ
靈山只在汝心頭
Linh sơn chỉ tại nhữ tâm đầu
明鏡亦非臺
Minh kính diệc phi đài
菩提本無樹
Bồ đề bản vô thụ
我讀金剛千遍零
Ngã độc kim cang thiên biến linh
其中奧旨多不明
Kỳ trung áo chỉ đa bất minh
及到分經石臺下
Cập đáo phân kinh thạch đài hạ
終知無字是眞經
Chung tri vô tự hựu chân kinh

Dịch nghĩa: Đài Đá nơi Lương Chiêu minh thái tử chia kinh
Nơi Chiêu Minh thái tử  (1)triều Lương chia kinh
Đài đá còn ghi chữ "Chia kinh"
Nền đài gai góc lấp trong mưa bụi
Trăm loài cỏ sợ lạnh đều chết khô hết
Không thấy kinh còn lại nơi đâu
Chỉ nghe kể chuyện thời xưa
Lương thái tử thời niên thiếu say mê văn chương
Gượng bày đặt phân tách chi ly rắc rối
Phật vốn là không, chẳng vướng vào vật
Có gì tùy thuộc vào kinh mà chia với phân?
Văn thiêng không phải nhờ khoa ngôn ngữ
Cái gì là kinh Kim Cương, cái chi là kinh Pháp Hoa? (2)
Cảnh giới Sắc Không mờ mịt không hiểu
U mê mà theo Phật thì Phật sinh ra ma
Cha con một nhà cùng mù quáng hết (3)
Chỉ trong một niệm, ma tự đến
Ở nơi lăng núi không có đài sen nổi lên
Một sớm ngựa trắng vượt sông Trường Giang
Rừng nước Sở cháy, cây gặp tai họa, cá trong ao bị vạ (4)
Kinh cháy ra tro, đài cũng đổ
Muôn nghìn lời để lại đều vô ích
Chỉ để cho đám sư ngu dốt đời sau tụng đọc điếc tai
Ta nghe nói đức Thế Tôn  (5) tại Linh Sơn
Thuyết Pháp cứu người nhiều như cát sông Hằng  (6)
Người hiểu tâm này, người tự độ
Linh Sơn chính ở tại lòng ta
Gương sáng không có đài
Bồ đề vốn không cây (7)
Ta đọc Kinh Kim cương hơn nghìn lần
Nhiều yếu chỉ sâu sắc trong đó ta không rõ
Đến nay, dưới đài đá "Chia kinh"
Mới hiểu kinh "không chữ" mới thật là chân kinh (8)

Dịch thơ: Đài Đá nơi Lương Chiêu Minh thái tử chia kinh

Nơi Lương thái tử chia kinh
Thạch đài hai chữ rành rành còn ghi
Nền đài gai góc lấp đi
Cỏ hoa sợ rét đều thì chết khô
Kinh nào có thấy nơi mô
Chỉ nghe kể chuyện ngày xưa khá tường
Trước ngài say đắm văn chương
Tách chia tỉ mỉ đài gương đặt bày
Phật vốn không nào đã hay
Có đâu tùy thuộc vật này mà chia ?
Văn thiêng đâu bởi ngôn từ
Kim Cương cùng với Pháp Hoa là gì ?
Sắc không cảnh giới hiểu chi
U mê theo Phật Phật thì thành ma
Cha con mù quáng cả nhà
Chỉ cần một niệm là ma đến liền
Sơn lăng không thấy đài sen
Trường Giang ngựa trắng nhớ lần qua đây
Rừng Sở cháy, cá vạ lây
Kinh ra tro bụi, đài này còn chi
Nghìn pho để lại ích gì
Để sư ngu tụng nghe thì điếc tai
Thế Tôn khi ở linh đài
Cứu người thuyết pháp công ngài Hằng sa
Hiếu tâm tự độ lòng ta
Gương đài gọi vậy nhưng mà không gương
Bồ đề cây vốn cũng không
Kim Cương nghìn lần đọc hiểu còn sai
Hôm nay đến dưới thạch đài
Mới hay không lời mới thật là kinh.
                            Đỗ Đình Tuân  

                               (dịch thơ)

Ghi chú:
1.Lương Chiêu Minh thái tử: Lương (502-556) là một trong bốn triều vua thời Nam Triều (Tống, Lê, Lương, Trần). Thái tử Chiêu Minh tên là Chiêu Thống, con của Lương Vũ Đế 梁武帝, tức Tiêu Diễn 蕭統 (502-549), thời Nam Bắc triều 南北朝, hai cha con đều sùng bái đạo Phật. Học rộng, ham nghiên cứu văn học, là tác giả bộ Văn tuyển 文選.
2.Kim Cương, Pháp Hoa: tên hai bộ kinh Phật.
3.Một nhà cha con…: Năm Phổ thông thứ 8, vua Lương Vũ Đế, sai sứ đithỉnh Bồ Đề Đạt Ma về Thành Đô là Kim Lăng, hỏi: “Trầm từ khi lên ngôi đến nay, xây chùa, chép kinh, độ tăng không biết bao nhiêu mà kể, vậy có công đức gì không?”.
Sư Đạt Ma đáp: “ Đều không công đức. Tại sao không có công đức? Bởi vì những việc vua làm là hữu lậu chỉ có những quả nhỏ trong vòng nhân thiện, như ảnh tùy hình, tuy có nhưng không phải thật. Vậy công đức chân thật là gì ? Trí phải được thanh tịnh hoàn toàn, thể phải được trống không vằng lặng, như vậy mới là công đức, và công đức này không thể lấy việc thế gian (như xây chùa, chép kinh, độ tăng) mà cầu được.
Sau câu chuyện đối đáp này, sư biết tâm vua không khế hợp đượcvới pháp mình bèn bỏ đi.
4. Bạch mã…Sở lâm: hai câu này nói về tích Hầu cảnh, trước là tướng Đông Ngụy,  Sau hàng Lương rồi lại phản Lương, cưỡi ngựa trắng qua sông Trường Giang đánh Lương Vũ Đế. Khi Hầu Cảnh hàng Lương, Đông Ngụy đưa tờ hịch cho Lương có câu: Sợ nước Sở mất vượn / Họa lây đến cẩy rừng / Cửa thành cháy vạ lây đến cá dưới ao”.
5. Thế Tôn chỉ Phật Tổ
6. Hằng Hà sa số: nhiều như cát sông Hằng 
7. Lấy ý từ bài kệ của Lục tổ Huệ Năng có những câu: “Bồ đề bản vô thụ / Minh kính diệc phi đài / Bản lai vô nhất vật / Hà xứ nhạ trần ai” (Bồ đề vốn không có cây / Đài gương cũng không có kính / Vốn không phải là một vật / Bụi bặm bám vào đâu ?).
8.Vô tự: tức kinh không chép bằng chữ: ý nói đạo ở tâm chứ không phải ở kinh kệ.

7/4/2014
Đỗ Đình Tuân 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

ĐẾM TIỀN

Ông ngồi giương kính đếm tiền Đồng tiền mỏng thế mà liền với xương Tiền này là khoản tiền lương Là tiền năm tháng chiến trường cho ta ...