Thứ Ba, 28 tháng 1, 2014

Chí Linh phong vật chí (29)

                          LÀNG NGÔ ĐỒNG…

Dịch âm:
Ngô Đồng Nguyễn Mại danh hữu bỉnh
Minh mẫn thiên tư trù dữ tịnh
Xuân khoa nhị giáp đạt cao tiêu
Tây trấn lục niên thi đức chính
Đồn khuyển can thường tôi hữu dư
Xuân thu di bút công hàm lệnh
Triết đàn cổ thụ bạch vân đê
Trật điển khoa chương hồng nhật quýnh
Cố lý hưu đàm văn hiệu dĩ
Di phong đạo khởi nhân chiêm kính.
Dịch gnhĩa:
Ông Nguyễn mại làng Ngô Đồng danh tiếng lừng lẫy
Thiên tư minh mẫn dễ ai sánh bằng
Khoa xuân (1) đậu cao đệ nhị giáp
Trấn Sơn Tây sáu năm làm quan có đức chính
Chó lợn can tội (2) thường có dư
Bút Xuân thu (3) chép thì có hại gì đến danh giá ông
Nền thờ bậc hiền triết, cây cỏ mây phủ trắng
Sắc phong tự điểm như mặt trời sáng tỏ
Làng cũ thường bàn đến danh hiệu của ông
Di phong của ông làm cho người sau kính phục.
Tạm dịch thơ:
Làng Ngô Đồng có ông Nguyễn Mại
Kể thiên tư thông thái ai tầy
Xuân khoa nhị giáp vinh thay
Sáu năm Tây trấn (4) chính hay (5) vang lừng
Sau con cái tuy rằng làm dại
Bút xuân thu chẳng hại danh ông
Đền thờ cây cỏ mây lồng
Sắc phong rạng rỡ ánh hồng sáng soi
Quê hương cũ sáng ngời danh hiệu
Khiến người sau mến đạo kính tôn.
Ông nGuyễn Mại người làng Ngô Đồng, tổng Cao Đôi (tên cũ là làng Ninh Xá). Ông thiên tư minh mẫn, làm quan đến chức Đông quận công. Tương truyền: ông vâng mệnh đi Đôc đồng trấn thủ Sơn Tây, làm việc khoam giảm khám xét kiện tụng, danh tiếng rõ ràng. Một hôm ông từ quê nhà đi lên trấn, đường đi quan làng Phú Thị, huyện Gia Lâm xứ Kinh Bắc, nghe tiếng một người đàn bà chửi mất gà. Ông liền xuống xe, sai đòi mụ đàn bà đến hỏi rằng: “Con gà của nhà mày đáng giá bao nhiêu?”. Mụ nói: “Đáng giá ba tiền”. Ông sai người lấy tiền giả, trách mụ kia chửi rủa quá lời, rồi sai người làng tát vào mặt mụ đó.Mọi người đều không nỡ tát, chit tát nhẹ thôi. Riêng có một người tát mạnh sưng cả mặt lên. Ông chỉ vào mặt người đó nói: “Mày ăn cắp gà cuảt nó cho nên mày tát vào mặt nó đau. Tội mày khó chối được”.Kẻ kia khiếp sợ, thú nhận tội lỗi, phải dẫn đến chỗ vứt llong gà, quả tang như vậy. Ông bắt phải đền tiền gà với vết tyhường người kia rồi đi.
Lại một hôm, ông đi tuần đến huyện Sơm Vi, nghe thấy trong chùa có một sư nữ kêu mất cái quần lụa, ông sai lập đàn, bắt các nữa sư đến cả nơi đó, mỗi người một tay cầm cành phướn,  một tay cầm nắm thóc mà đi vòng quanh đàn. Ông bảo: “Nếu kẻ nào gian thì thóc sẽ nẩy mầm ra”. Ông nhìn thấy có một sư nữ thường hé mở tay xem. Ông gọi lại bảo. Kẻ kia phải thú nhận và khiếp sợ, đem quân lụa giả.
Lại một ngày khác, trong trấn có một kẻ trộm đêm đi qua đền Lô đại vương, cầu khấn giúp đỡ lấy trộm được vật quý, xin đến lễ tạ. Đến đêm hôm đó quả lấy trộm được một cái áo gấm, đem mặc cho thần vị. Ngày hôm sau người chủ mất của đi tìm. Khi qua đền thấy áo gấm mặc ở thần, vì đích thực của mình, ý nghĩ thần này hay dung kẻ trộm, đến quan trấn thủ kiện cáo. Ông lập tức đến đền đó, hạ thần vị xuống cùng ngồi. Ông hỏi: “Đại vương thần coi giữ một làng, ta giữ chức trông coi một trấn, kẻ nào ăn trộm mà đại vương dung túng như vậy, đại vương tinh sáng soi xét, áo này ở đâu đem lại, không biết hay sao?”.Một lát quả thấy kẻ trộm chắp tay đến thú nhận tội lỗi, xin trả hết của cải cho người mất trộm.
Ông là người tinh sáng hơn người, xét bắt gian phi rất tài, đại khái như vậy. Cho nên nhân dân trong trấn gọi là “Sơn Tây Đức chính” (6) khắc bia để ghi nhớ.
Ông tinh sáng thông suốt, hỏi kiện như thần, sau ông lại trở về triều đình. Vị thần này báo ứng vào chúa Trịnh phát ra điên dại, ông nói những lời cương trực, chúa Trịnh đâm chết ông ngay ở trong Triều (Lời phê bình có ý cho việc này là quả báo vì ông ngồi với đại vương thần tr hỏi kẻ trộm. Liệu có việc này không?)
Xét: sau ông mất rồi, con ông tên Cống Cừ, cống Tuyển, cùng với người làng Mộ Trạch, người huyện Đường hào gọi là Cống Huỳnh, nhân lúc có loạn, đem dân lê thuộc mở cờ khởi nghĩa, tự xưng là Minh chúa, Minh công, quân sĩ kết tre làm thành bù nhìn để chắn, thanh thế mạnh mẽ, trấn động đến kinh đô. Lúc bấy giờ gọi là giặc Bông Chí Linh. Triều đình sai tướng đến đánh và dẹp đi, tịch thu ruộng đất sung công, sau cho dân về đổi tên làng là Ngô Đồng. Cho nên xã này đều là ruộng công. Trong tổng có 8 xã, dựng đền thờ ông ở xã đó, tôn là bậc tiên hiền( Nay còn tục truyền gọi là chợ Đanh (?). Đền ông vẫn còn, cây cối um tùm. Bản triều lên trị nước phong là Phúc thần.

(1)   Khoa xuân: khoa thị hội vềmùa xuân

(2)   Chó lợn can tôi: Cũng như nói “Con can tội”

(3)   Bút xuân thu: ngòi bút chép kinh xuân thu, hay khen hèn chê rất đúng mực

(4)   Tây trấn: trấn Sơn Tây

(5)   Chính hay: chính sách cai trị tốt đẹp được nhân dân ca ngợi.

(6)   “Sơn Tây đức chính”: một ông quan có chính sách tốt đẹp cai trị ở tỉnh Sơn Tây.



28/1/2014
Đỗ Đình Tuân


 



Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

ĐẾM TIỀN

Ông ngồi giương kính đếm tiền Đồng tiền mỏng thế mà liền với xương Tiền này là khoản tiền lương Là tiền năm tháng chiến trường cho ta ...