Thứ Năm, 2 tháng 1, 2014

Chí Linh phong vật chí (17)


                                       LONG ĐỘNG
                                            (KỲ 3)

Lại một câu đối nữa:
Ly my võng lưỡng tứ tiểu quý (1)
Ông đối:
Cầm sắt tỳ bà bát đại vương (2)
Dịch nghĩa:
Ly my võng lưỡng bốn tên quý nhỏ
Cầm sắt tỳ bà tám bậc đại vương
Câu đối này người Tầu suy đoán là con cháu đời saucó người làm thành hoàng, được hưởng huyết thực (gà, lợn, trâu, bò).
Lại một câu đối nữa:
Quých khiếu tường đầu đàm Lỗ luận (Luận ngư)
Tri vi tri, bất tri vi bất tri, thị tri
Ông đối:
Oa minh trì thượng độc châu thư (sách Mạnh Tử)
Nhạc lạc nhạc, độc lạc dữ chúng lac, thục lạc
Dịch nghĩa:
Chim quých kêu đầu tường bàn Lỗ Luân: Biết là biết, không biết cho là không biết, thế là biết.
Con ếch kêu trên bờ ao đọc sách châu thư:, vui nhạc vui, một mình vui với mọi người vui,đằng nào vui
Chính nghĩa như vậy song đọc theo âm thì sẽ nghe như tiếngm chim chích kêu có ngụ ý khing người Việt Nam như chim chích. Nên ông đối lại cũng ngụ ý chê người Tầu nói như ếch kêu.
Lại một câu đối nữa:
Lậu ốc nhật xuyên, hình kê noãn tam tam tứ tứ
Ông đối:
Tràng giang ba động, tự long lân điệp điệp trùng trùng.
Dịch nghĩa:
Nhà dột mặt trời soi, tựa trứng gà ba ba bốn bốn
Sông dài làn sóng gợn,giống vẩy rồng lớp lớp tầng tầng.
Lại một câu đối nữa:
Lạc thủy thần quy đan ứng triệu, thiên số cửu, địa số cửu, cửu cửu bát thập nhất số, số số hỗn thành tam đại đạo, đạo tại nguyên thủy thiên tôn, nhất thành hữu cảm.
Đối:
Kỳ sơn minh phượng lưỡng trình tường, hùng thanh lục, thư thanh lục, lục lục tam thập lục thanh, thanh thanh ứng thấu cửu trùng thiên, thiên tích Gia Tĩnh hoàng đế, vạn thọ vô cương
Dịch nghĩa:
Sông Lạc (3) rùa thần một ứng triệu hay, số trời chín, số đất chín, chín lần chín là tám mốt số, số số hợp thành ba đâị đạo, đạo ở đằng nguyên thủy thiên tôn, một lòng thành có cảm
Núi Kỳ chim phượng hai trình điềm tốt, tiếng sống sáu, tiếng mái sáu. Sáu lần sáu là ba mươi sáu thanh, tiếng tiếng thâu đến chín lần trời, trời cho vua Gia Tĩnh hoàng đế muôn tuổi thọ không ngần.
Người Tầu lúc đầu thấy tướng mạo ông có vẻ tầm thường họ coi rẻ rung, nên họ ngâm bài thơ “CÁI BÈO” là:
Tùy điền trục thủy mạc tiêm châm
Đáo đểm nguyên lai chúng bất thâm
Không hữu căn hành không hữu diệp
Cảm sinh chi tiết cảm sinh tâm
Ninh chi tụ xứ yên chi tán
Đãn thức phù thời  bất thức trầm
Đại đế Hán Đường phong sắc ác (4)
Tào quy hồ hải cánh vô tầm.
Dịch nghĩa:
Tùy ruộng theo nước dáng như kim nhọn cắm xuống
Đến đáy từ trước cắm xuống không sâu
Không có gốc thân không có lá
Dám sinh chi tiết dám sinh lòng
Biết đâu là tụ biết đâu là tán
Chắc hẳn nổi lên có lúc chìm
Hết thảy nhà Hán, nhà Đường phong sắc xấu
Sớm về nơi hồ hải cũng không ai tìm.
Tạm dịch thơ :
Mọc theo ruộng nước dàng như kim
Từ trước chơi vơi gốc chắn im
Không có củ thân không có lá
Dám sinh chi tiết dám sinh tim
Biết đâu tụ lại không khi tán
Chắc hẳn nổi lên có lúc chìm
Gặp lúc trời chiều cơn gió táp
Sớm vô hồ hải biết đâu tìm
Mượn vật đó làm thơ đòi ông họa vần. Ông liền họa ngay rằng:
Cẩm lân mặt vật bất dung châm
Tịnh diệp liên cân bất kế thâm
Thường dữ bạch vân tranh thủy diện
Khởi dung ming nguyệt trụy ba tâm
Thiên tầng lãng đả thành nan phó
Vạn trận phong xuy vĩnh bất trầm
Đa thiểu ngư long tàng lý đố
Thái Công vô kế hạ cần tầm.
Dịch nghĩa:
Vẩy gấm kín mít không lọt cái kim
Cả thân liền rễ, không kể chỗ nước sâu nông
Thường cùng với mây trắng tranh mặt nước
Không cho trăng sáng lọt đáy nước
Ngàn trùng sóng đánh cũng khó tan vỡ
Muôn trận gió thổi mà vẫn không chìm
Nhiếu ít cá rồng ẩn ở dưới đáy
Ông Thái Công cũng không có kế gì hạ cần câu bắt được.
Tạm dịch thơ:
Vẩy gấm ken dầy khó lọt kim
Kết liền lá rễ vững và im
Thường cùng mây trắng tranh làn nước
Há để trăng thanh lọt đáy tim
Sóng vỗ ngàn tầng mà chẳng vỡ
Gió đều muôn trận vẫn không chìm
Cá rồng nhiều ít nương trong đó
Lã Vọng buông câu hết kế tìm.

Ghi chú
(1)+(2): Câu đối này là cách chơi chữ vì 4 chữ “ly vị võng lưỡng” đều có  1 chữ “quý”, gọi là “quí nhỏ”. Còn bỗn chữ “cầm sắt tỳ bà”, mỗi chữ đèu có 2 chữ vương, nên gọi là “tám vua lớn”.
(3): Thơ cái bốc tức là chữ “bình phú”. Ở đây cho là Mạc Đĩnh Chi, ngờ là không đúng, vì bài này là Giáp Trung, họa vần bài  của Mao bá Ôn khi sang định đánh nước ta nên lời lẽ có vẻ kiêu ngạo. Nhưng Giáp Trung họa lại có ý bất khuất, nên Mao Bá ÔN phải chịu quay về nước.
(4): Câu này có bản viết là: đãi đáo trung thiên phong khí áp” có nghĩa hơn, nên phần dịch thơ ở dưới theo ý câu này.

31/12/2013
Đỗ Đình Tuân


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

ĐẾM TIỀN

Ông ngồi giương kính đếm tiền Đồng tiền mỏng thế mà liền với xương Tiền này là khoản tiền lương Là tiền năm tháng chiến trường cho ta ...